Trong 6 tháng đầu năm 2021, Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt - LienVietPostBank (HOSE: LPB) cho vay tăng 25,5% so với cùng kỳ và 8,3% so với cuối năm trước, cao hơn mức tăng 3,5% so với cuối năm trong 6 tháng 2020. NIM cải thiện 63 điểm cơ bản svck đạt mức 3,6% nhờ chi phí vốn (COF) giảm sâu hơn so với lợi suất tài sản. Lợi suất tài sản giảm về 8,51% trong 6 tháng 2021 từ mức 8,61% trong 6 tháng 2020 do LPB hạ lãi suất để hỗ trợ khách hàng trong khi CoF giảm về 5,2% trong 6 tháng 2021 từ mức 6,0% trong 6 tháng 2020 do giảm lãi suất từ 50-90 điểm cơ bản svck đối với tất cả các kỳ hạn.
Kết quả, thu nhập lãi thuần của LPB tăng 45,8% so với cùng kỳ đạt 4.231 tỷ đồng. Trong khi đó, thu nhập ngoài lãi tăng 75,2% so với cùng kỳ đạt 544 tỷ đồng chủ yếu nhờ tăng trưởng 86,4% so với cùng kỳ của lãi thuần từ hoạt động dịch vụ. Tỷ lệ chi phí trên doanh thu (CIR) giảm về 44,4% trong 6T21 từ mức 62% trong 6T20, tốt hơn mức kỳ vọng của VND, nhờ giảm chi phí nhân viên và hoạt động công vụ. Lợi nhuận ròng 6 tháng 2021 tăng 100,6% so với cùng kỳ lên tới 1.617 tỷ đồng, đạt 60% dự báo cả năm.
Tỷ lệ nợ xấu (NPL) giảm xuống 1,34% tại cuối quý 2/2021 từ mức 1,43% cuối quý 1/2021 và 1,43% cuối quý 4/20 khi ngân hàng xóa nợ 415 tỷ đồng (~7.003% svck), kéo theo tỷ lệ xóa nợ lên 0,2% trong 6 tháng 2021 – cao nhất từ năm 2018. Ngân hàng cũng ghi nhận chi phí dự phòng tăng 185% so với cùng kỳ, dẫn đến tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) tăng tới 96,5% tại cuối quý 2/2021 từ mức 94,5% tại cuối quý 1/2021.
Trong giai đoạn 2021 – 2022, VND dự báo NIM sẽ giảm dần trong 6 tháng cuối năm khi ngân hàng hạ lãi suất nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Do đó, VND giữ mức dự báo cũ với NIM đạt 3,28%/3,24%. VND giảm CIR về mức 48%/54% từ mức dự báo trước là 55%, khi ngân hàng kiểm soát chi phí tốt hơn mong đợi trong 6 tháng 2021. Mặt khác, VND nâng chi phí dự phòng năm 2021 thêm 83,6% so với dự báo trước đó khi ngân hàng chủ động với những khoản nợ xấu mới. Kết quả, LN ròng năm 2021 – 2022 tăng nhẹ thêm 1,6%/1,9% so với dự báo trước đó.
VND giữ đánh giá Trung lập cho cổ phiếu LPB với giá mục tiêu không đổi 26.000 đồng/cp dựa trên định giá thu nhập thặng dư (chi phí vốn: 14,6%; tăng trưởng dài hạn: 3,0%) và mục tiêu P/B đạt 1,6x cho năm 2021. Tiềm năng tăng giá đến từ sự thành công của đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài và chi phí trả trước cho hợp đồng banca độc quyền cao hơn dự kiến. Rủi ro giảm giá đến từ việc chi phí tín dụng cao hơn dự kiến.
CTCP Cơ Điện Lạnh (HOSE - Mã: REE) ghi nhận doanh thu trong quý 2/2021 đạt 1.635 tỷ đồng, tăng 27% YoY, LNST đạt 470 tỷ, tăng 17% YoY. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2021, REE ghi nhận doanh thu 2.819 tỷ, tăng 14% YoY, LNST đạt 942 tỷ đồng, tăng 38% YoY. Như vậy, REE đã hoàn thành 41% kế hoạch doanh thu và 53% kế hoạch LNST.
Doanh thu quý 2/2021 tăng nhờ REE hợp nhất doanh thu với VSH và tình hình thủy văn thuận lợi dẫn đến sản lượng sản xuất từ nguồn thủy điện tăng, bù đắp phần doanh thu nhiệt điện giảm. Ngoài ra, giá mua từ nguồn này cũng rẻ nhất nên được ưu tiên huy động. Biên lãi gộp tăng lên mức 40,6% từ mức 30,5% cùng kỳ. Tuy nhiên, do chi phí lãi vay và chi phí quản lý doanh nghiệp tăng mạnh lần lượt 75% YoY và 93% YoY nên LNST chỉ còn tăng 17% YoY.
Trong năm 2021, FSC cho rằng mảng thủy điện với điều kiện thủy văn thuận lợi sẽ tạo tăng trưởng lợi nhuận cho REE. Việc hợp nhất với VSH sẽ là động lực tăng trưởng cho REE trong năm nay, nhà máy Thủy điện Thượng Kon Tum của VSH đi vào hoạt động đầu tháng 4/2021 giúp tăng gần gấp 3 lần tổng công suất của VSH lên 356 MW. Xác suất La Nina đang kéo dài hơn sẽ hỗ trợ KQKD mảng thủy điện.
Mảng năng lượng tái tạo, 3 dự án điện gió với tổng công suất 102 MW đang theo đúng tiến độ sẽ giúp REE tăng thêm khoảng hơn 700 tỷ doanh thu và gần 200 tỷ đồng LNST cho công ty mẹ trong 2021.
Dịch bệnh vẫn tiếp tục tác động tiêu cực lên mảng M&E trong năm 2021, nhưng FSC kỳ vọng dịch bệnh có thể sẽ sớm được kiểm soát trong năm 2021 và dự báo mảng M&E có thể hồi phục trở lại vào đầu năm 2022.
Ở mức giá đóng cửa hiện tại, REE đang được giao dịch tại mức PE TTM là 10,7x (tương ứng EPS TTM là 5.807 đồng). Mức Stock Rating của REE ở mức 81 điểm, nhưng Sức mạnh giá chỉ ở mức 63 điểm cho nên các NĐT ngắn hạn chỉ nên xem xét ở tỷ trọng thấp dưới 10%.
Đồ thị giá của REE đạt mức cao nhất 52 tuần với khối lượng giao dịch tăng đột biến so với mức KLGD trung bình 20 phiên. Đồng thời, đồ thị giá có dấu hiệu bước vào giai đoạn biến động mạnh theo chiều hướng tích cực và xu hướng ngắn hạn của REE cũng được nâng lên mức TĂNG. Do đó, FSC khuyến nghị các NĐT ngắn hạn có thể xem xét MUA ở mức giá hiện tại với tỷ trọng thấp dưới 10% và tăng dần tỷ trọng lên 15% khi mức Sức mạnh giá trên 80 điểm.
Khuyến nghị NĐT ngắn hạn có thể nắm giữ cổ phiếu DGC
Mức Stock Rating của DGC (CTCP Tập đoàn Hóa chất Đức Giang – sàn HOSE) ở mức 95 điểm cho nên FSC duy trì đánh giá TÍCH CỰC mức xếp hạng tăng trưởng của cổ phiếu này. Sức mạnh giá của DGC đạt 94 điểm cho thấy đà tăng ngắn và trung hạn bền vững và dư địa tăng giá vẫn còn.
Đồ thị giá của DGC đóng cửa tăng 2,6% và đạt mức cao nhất 52 tuần. Đồng thời, đồ thị giá có dấu hiệu bước vào giai đoạn biến động mạnh theo chiều hướng tích cực cho thấy xu hướng ngắn và trung hạn có thể mở rộng về các mức cao hơn. Hiện tại, DGC đã vượt mức mục tiêu ngắn hạn 104.31 cho nên FSC khuyến nghị các NĐT ngắn hạn có thể NẮM GIỮ cổ phiếu DGC.
Cổ phiếu HBC (CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình – sàn HOSE) đang hình thành xu hướng hồi phục về vùng giá 18.0. Thanh khoản cổ phiếu vượt nằm dưới ngưỡng trung bình 20 phiên.
Tuy nhiên, đường giá cổ phiếu đã vượt lên đường MA20 và MA50; báo hiệu xu hướng tăng giá tích cực. Chỉ báo RSI ủng hộ xu hướng tăng giá trong khi chỉ báo MACD có dấu hiệu chuyển sang xu hướng tích cực.
Nhà đầu tư có thể mở vị thế quanh ngưỡng giá 14.5, chốt lãi khi cổ phiếu tiếp cận ngưỡng 17.0 và cắt lỗ nếu cổ phiếu mất ngưỡng hỗ trợ ngắn hạn 13.5.
Doanh thu 6 tháng đầu năm của Tổng Công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí (HOSE - Mã: PVD) đạt 1.662 tỷ đồng, bằng 53% so với cùng kỳ 2020 (svck) và đạt 38% kế hoạch năm, trong đó doanh thu dịch vụ khoan giảm 74%, dịch vụ kỹ thuật giếng khoan giảm 43% svkd. Doanh thu giảm do các hoạt động trong kỳ vẫn gặp những khó khăn, ít hợp đồng, giá cước thấp và không có giàn khoan thuê ngoài.
Lĩnh vực dịch vụ khoan vẫn hoạt động dưới giá vốn, với mức lỗ gộp là 60 tỷ đồng, trong khi đó lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật giếng khoan vẫn giữ được hiệu quả với biên lợi nhuận gộp đạt 19,7% so với mức 18,6% svck. Tổng lãi gộp 6 tháng đạt 84 tỷ đồng, giảm mạnh 61% so với cùng kỳ.
Trong kỳ, công ty tiếp tục phải trích lập dự phòng khó đòi thêm 35 tỷ đồng, trong đó trích 28 tỷ đồng/tổng 94 tỷ đồng nợ xấu cho hợp đồng với KrisCapuchia.
Doanh thu giảm, chi phí dự phòng tăng, kết quả làm cho 6 tháng đầu năm công ty lỗ trước thuế 59 tỷ đồng, lỗ sau thuế là 67 tỷ đồng, lỗ dành cho cổ đông công ty mẹ lên đến 96 tỷ đồng.
Trong 6 tháng cuối năm, với các hợp đồng cho thuê giàn khoan đã được ký kết, MBS kỳ vọng hoạt động của công ty sẽ khả quan hơn. Các giàn khoan JackUp hiện cơ bản có việc làm đến hết năm 2021, khả năng công ty cũng sẽ phải thuê thêm giàn trong quý IV cho hoạt động khoan trong nước. Ngoài ra từ tháng 10, giàn PVD V sẽ chính thức hoạt động trở lại với hợp đồng khoan tại Brunei.
MBS cũng có cuộc trao đổi về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong giai đoạn dịch Covid19 đang diễn biến xấu và được biết không có nhiều ảnh hưởng do hoạt động khoan, dịch vụ khoan chủ yếu trên biển và đội ngũ kỹ sư, lao động kỹ thuật được đảm bảo an toàn, cách ly hoàn toàn với dịch bệnh.
MBS định giá cổ phiếu ở mức 20.800 đồng/cổ phần và khuyến nghị mua cổ phiếu PVD với các điểm nhấn: 1) Hoạt động khoan đã trở lại ổn định và hợp đồng nhiều hơn cho giai đoạn 6 tháng cuối năm 2021; 2) Giàn khoan nước sâu PVD V sẽ thực hiện khoan cho BSH từ quý IV.2021 hứa hẹn mang lại kết quả kinh doanh tốt cho công ty; 3) giá dầu tiếp tục được dự báo neo ở mức cao từ 65-70 usd trong năm 2022 sẽ thúc đẩy dự án dầu khí và giá cước thuê giàn lên cao.
Những nhận định của các công ty chứng khoán là nguồn thông tin tham khảo, các công ty chứng khoán đều có khuyến cáo miễn trách nhiệm đối với những nhận định trên.
Tân An
Theo Tạp chí Kinh tế Chứng khoán Việt Nam
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|