Philippines: Dự kiến mở cửa "có kiểm soát" từ đầu 2026

Chia sẻ tại Hội nghị "Kinh doanh xuất khẩu gạo" do Bộ Công Thương tổ chức mới đây, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Philippines đánh giá, nguồn cung gạo của Philippines thời gian tới sẽ phụ thuộc vào sản lượng mùa vụ năm nay và dự báo sẽ chịu ảnh hưởng nhất định từ những cơn bão đổ bộ.

Đây được xem là cơ sở để Chính phủ Philippines cân nhắc điều chỉnh chính sách nhập khẩu theo hướng linh hoạt hơn từ đầu năm 2026, bao gồm khả năng mở cửa linh hoạt trở lại vào tháng 1/2026 sau khi kết thúc giai đoạn tạm dừng nhập khẩu (theo Sắc lệnh số 102 của Tổng thống Ferdinand Marcos Jr., từ ngày 1/9/2025).

margin: 15px auto;" />

Toàn cảnh Hội nghị "Kinh doanh xuất khẩu gạo" do Bộ Công Thương tổ chức.

Về giá cả, theo thông tin từ Tổng cục lúa gạo, giá gạo tại Philippines duy trì ở mức cao trong nhiều tháng liên tiếp. Riêng tháng 11 vừa qua, giá còn tăng so với tháng trước, trung bình khoảng 7- 8 peso/kg, tương đương khoảng 84 - 86 USD/tấn.

Dự kiến ban đầu, Philippines có thể nhập khoảng 300.000 tấn khi mở cửa trở lại, song khối lượng thực tế sẽ tùy theo sản lượng thu hoạch, giá gạo thế giới và giá gạo nội địa. Trước đó, Philippines đã ban hành mức thuế nhập khẩu linh hoạt 15 - 35%, với cơ chế điều hành, điều chỉnh theo diễn biến giá gạo thế giới và mục tiêu kiểm soát lạm phát, đồng thời bảo vệ giá lúa trong nước.

Thương vụ nhận định, chính sách nhập khẩu gạo của Philippines sắp tới sẽ điều chỉnh theo hướng thận trọng, mở cửa có kiểm soát, nhằm bảo đảm an ninh lương thực và kiềm chế giá gạo trong nước. Điều này đồng nghĩa Việt Nam đứng trước cơ hội lớn tại Philippines trong năm 2026, vì đây vốn là thị trường xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất của nước ta. Tuy vậy, việc xuất khẩu vào thị trường này sẽ không đơn giản, do cạnh tranh và các công cụ điều tiết của Philippines ngày càng rõ nét. 

Thương vụ cho rằng, khối lượng nhập khẩu của gạo Việt Nam có thể lên tới khoảng 4 triệu tấn trong năm 2026 nếu chính sách triển khai đúng tinh thần nêu trong lệnh hành chính của Tổng thống. Dù Philippines đang cố gắng đa dạng hóa nguồn cung, Việt Nam vẫn có lợi thế về logistics và quan hệ kinh doanh truyền thống.

Song, cần lưu ý là sức ép cạnh tranh đang tăng đáng kể khi gạo Thái Lan chiếm tỷ lệ lớn, đồng thời xuất hiện thêm các nhà xuất khẩu mới nổi như Pakistan. Thách thức cũng đến từ chủ trương đa dạng hóa nguồn cung và việc Philippines điều tiết bằng các công cụ hiện có như thuế nhập khẩu, cũng như khả năng ban hành thêm các công cụ mới trong thời gian tới, ví dụ như danh sách doanh nghiệp.

Trên cơ sở đó, thương vụ kiến nghị một số hướng đi để củng cố thị phần gạo Việt tại Philippines năm 2026. Thứ nhất, đề nghị Bộ Công Thương rà soát, thúc đẩy tổ chức kỳ họp Ủy ban Hỗn hợp tiếp theo giữa Chính phủ Việt Nam và Philippines trong năm 2026, khi đây là năm kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược.

Thứ hai, đề nghị tiếp tục duy trì cơ chế trao đổi thường xuyên với phía bạn, đặc biệt phát huy chủ động trong các cơ chế tham vấn chính sách trước khi ban hành trong khuôn khổ ASEAN để kịp thời nắm bắt, điều chỉnh theo thay đổi chính sách.

Thứ ba, với doanh nghiệp, cần tuân thủ nghiêm túc hợp đồng, nâng cao uy tín thương mại, cải thiện quy trình kiểm soát chất lượng để bảo đảm gạo giao hàng ổn định, thận trọng trước biến động giá, tránh tình trạng hủy hợp đồng hoặc giao sai chất lượng. Đồng thời, tăng cường minh bạch về chứng từ xuất xứ, truy xuất nguồn gốc, kiểm soát chất lượng và tuân thủ nghiêm các quy định kỹ thuật của Philippines vốn được đánh giá là rất chặt chẽ.

Thứ tư, doanh nghiệp cần tăng cường công tác thị trường, theo dõi tổng hợp lượng nhập khẩu - tiêu thụ, diễn biến giá gạo quốc tế và tại các nước nhập khẩu, nắm được tồn kho, mức giá nhập khẩu của đối tác nói chung và từng đối tác cụ thể, để chủ động kế hoạch. Đặc biệt, khi thị trường giảm giá, cần có biện pháp điều chỉnh, hỗ trợ để tránh đối tác nhập khẩu chịu thiệt hại lớn, dẫn tới khó khăn trong việc tiếp tục kinh doanh gạo Việt.

Thứ năm, thương vụ đề nghị doanh nghiệp tăng cường phối hợp với thương vụ để xử lý vướng mắc phát sinh, tiếp cận đối tác lớn hiệu quả, duy trì liên hệ để cập nhật chính sách và trao đổi về các điều kiện mà phía nước bạn coi là điều kiện cấp gạo "trên sàn".

Singapore: Đòn bẩy mới từ MOU chiến lược

Trong khuôn khổ hội nghị, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Singapore thông tin, Singapore gần như không có nền nông nghiệp, chỉ khoảng 10% nhu cầu tiêu dùng là rau và một số sản phẩm trồng trong nước, còn lại khoảng 90% nhu cầu lương thực - thực phẩm phụ thuộc vào nhập khẩu. Với mặt hàng gạo, được xem là sản phẩm chiến lược về an ninh lương thực, nhu cầu tiêu thụ hàng năm tại Singapore khoảng 400.000 - 450.000 tấn.

Cơ cấu nguồn cung tại Singapore hiện có ba nhà xuất khẩu chiếm thị phần lớn nhất, trong đó, Ấn Độ đứng đầu, Thái Lan đứng thứ hai và Việt Nam đứng thứ ba - nắm khoảng trên dưới 30% thị phần. Đầu năm 2024, khi Ấn Độ có chính sách hạn chế xuất khẩu gạo, Việt Nam lần đầu tiên vươn lên vị trí số một, thị phần khoảng 32 - 33%, nhưng chỉ duy trì khoảng 6 tháng vì nhiều lý do. Sau khi Ấn Độ mở cửa trở lại, Việt Nam tiếp tục duy trì vị trí thứ ba.

Singapore không phải thị trường tiêu thụ cuối cùng lớn (khoảng 450.000 tấn/năm), nhưng lại là thị trường trung chuyển quan trọng của khu vực và thế giới.

Đại diện thương vụ cho biết, từ năm 2023, Thương vụ Việt Nam tại Singapore đã phối hợp với cơ quan quản lý thực phẩm của Singapore, tổ chức các đoàn khảo sát và thúc đẩy xúc tiến, với sự hỗ trợ của Cục Xuất nhập khẩu.

Sau quá trình xúc tiến, đầu năm 2025 Singapore chính thức đề xuất với Việt Nam ký MoU về thương mại gạo. Các đơn vị của Bộ Công Thương đã phối hợp khẩn trương và ngày 30/10 vừa qua, Chính phủ hai nước đã chính thức ký MoU về thương mại gạo. Thương vụ đánh giá đây là bước tiến và đòn bẩy quan trọng để giữ vững, phát triển thị phần gạo Việt.

Thương vụ lưu ý, Singapore không phải thị trường tiêu thụ cuối cùng lớn (khoảng 450.000 tấn/năm), nhưng lại là thị trường trung chuyển quan trọng của khu vực và thế giới. Vì vậy, khi làm việc với đối tác Singapore, doanh nghiệp không nên chỉ nhìn vào quy mô dân số khoảng 6 triệu và lượng khách du lịch 10 - 15 triệu, mà cần nhìn rộng hơn vai trò trung chuyển xuất khẩu của Singapore sang các thị trường khác.

Thương vụ khuyến nghị, các doanh nghiệp cần đặc biệt lưu tâm đến chất lượng gạo theo chuỗi từ giống, canh tác, công nghệ, chế biến đến bảo quản sau thu hoạch; tuân thủ chặt các quy định về bao bì - mẫu mã - nhãn mác, bảo đảm thông tin đầy đủ, đúng quy định về ngôn ngữ và thành phần, bởi nhiều doanh nghiệp gặp khó khi chưa đáp ứng các yêu cầu này.

Thương vụ cũng cho rằng hoạt động xúc tiến thương mại gạo tại Singapore hiện còn yếu, một phần do doanh nghiệp lớn chưa nhìn nhận đầy đủ vai trò trung chuyển của thị trường. Vì vậy, cần tham gia nhiều hơn các hội chợ - triển lãm quốc tế, như hội chợ chuyên ngành tại Singapore, để tăng hiện diện, quảng bá thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Ngoài ra, thương vụ ghi nhận các doanh nghiệp thương mại gạo toàn cầu đang quan tâm tới gạo phát thải carbon thấp của Việt Nam, coi đây là xu hướng và lợi thế trong thời gian tới.

Indonesia: Dự trữ cao nhất 18 năm

Với thị trường Indonesia, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Indonesia cho biết, theo Bộ Nông nghiệp Indonesia và Cơ quan Thống kê Indonesia, tổng sản lượng gạo sản xuất năm 2025 của Indonesia dự kiến đạt khoảng 34,77 triệu tấn, tăng 13,5%, tương ứng tăng thêm khoảng 4,1 triệu tấn so với năm 2024. Diện tích canh tác lúa gạo năm 2025 đạt 11,35 triệu ha, tăng thêm 1,3 triệu ha so với năm 2024. Tổng nhu cầu tiêu thụ gạo năm 2025 dự kiến khoảng 31,14 triệu tấn.

Theo dữ liệu công bố mới nhất tính đến ngày 7/11/2025, lượng gạo dự trữ quốc gia của Indonesia đạt 3,9 triệu tấn, trong đó 3,74 triệu tấn là dự trữ quốc gia và 180.000 tấn là dự trữ thương mại. Bộ Nông nghiệp Indonesia dự báo đến thời điểm kết thúc vụ mùa thứ nhất (kết thúc vào tháng 4/2026), dự trữ quốc gia có thể lên tới 6 triệu tấn, trong khi cuối năm 2023, dự trữ ở mức 3 triệu tấn, tăng gấp 2 lần.

Thương vụ đánh giá đây là mức cao nhất và được xem là mức an toàn nhất trong 18 năm qua. Năm 2026, Bộ Nông nghiệp Indonesia đặt mục tiêu sản lượng khoảng 34,7 triệu tấn, tương đương năm 2025 và trong 4 năm tới, Chính phủ Indonesia đặt mục tiêu tăng thêm 3 triệu ha diện tích lúa. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) cũng đưa ra dự báo sản lượng gạo Indonesia năm 2026 có thể đạt khoảng 36 triệu tấn.

Dù Indonesia không nhập gạo cho dự trữ quốc gia trong năm 2025, nước này vẫn cấp hạn ngạch cho nhập khẩu thương mại, với tổng hạn ngạch năm 2025 là 366.250 tấn.

Giải thích nguyên nhân tăng mạnh sản xuất năm 2025, thương vụ tổng hợp một số điểm chính, bao gồm: Indonesia tăng mạnh diện tích canh tác; đẩy mạnh cơ giới hóa, với mức cơ giới hóa năm 2025 được Chính phủ Indonesia đánh giá là ngang ngửa Thái Lan; thúc đẩy ứng dụng AI trong canh tác chính xác, canh tác dựa trên dữ liệu, hỗ trợ nông dân thích ứng khí hậu - thời tiết, sử dụng phân bón hiệu quả, tối ưu hóa diện tích đất;

Gia tăng sử dụng giống lúa năng suất - chất lượng cao, hiện đã gieo trồng trên khoảng 60% diện tích và xu hướng tiếp tục tăng; cải cách cơ chế quản lý phân bón giúp giảm giá phân bón khoảng 20%; tăng giá thu mua lúa từ 6.000 rupiah lên 6.500 rupiah/kg để khuyến khích sản xuất; thời tiết năm 2025 tương đối thuận lợi.

Về nhập khẩu, dù Indonesia không nhập gạo cho dự trữ quốc gia trong năm 2025, nước này vẫn cấp hạn ngạch cho nhập khẩu thương mại, với tổng hạn ngạch năm 2025 là 366.250 tấn. Trong 10 tháng đầu năm, Indonesia đã nhập khoảng 364.000 tấn, trong đó có 287.000 tấn gạo tấm (100% phục vụ mục đích công nghiệp), 3.150 tấn gạo Basmati, 600 tấn gạo Comali, phần còn lại là các loại như gạo nếp, Japonica, Jasmine. Các nước xuất khẩu chính được nêu gồm: Ấn Độ, Pakistan, Thái Lan và Việt Nam.

Để duy trì xuất khẩu bền vững và củng cố vị thế gạo Việt tại Indonesia, Thương vụ kiến nghị Việt Nam cần tiếp tục nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu thông qua cải tạo giống, phân bón và cơ giới hóa; chủ động tìm kiếm, tiếp cận đúng đối tượng, do số doanh nghiệp Indonesia đủ điều kiện nhập khẩu gạo không nhiều.

Mặt khác, doanh nghiệp Việt cần quan tâm hơn đến xây dựng thương hiệu, có chiến lược quảng bá bài bản cho gạo chất lượng cao, gạo cao cấp, sử dụng đa dạng kênh truyền thông - tiếp thị, tận dụng mạng lưới doanh nghiệp kiều bào để quảng bá và bán sản phẩm, phối hợp với Bộ Công Thương, hiệp hội và thương vụ để triển khai các chương trình xúc tiến, tuyên truyền quảng bá gạo Việt tại thị trường Indonesia.

Phượng Các