Ngân hàng HSBC vừa công bố báo cáo mới về FDI vào khu vực Đông Nam Á. Tại báo cáo, HSBC nhận xét trong khi triển vọng thương mại toàn cầu ảm đạm thì vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) vẫn đang đổ vào ASEAN.
FDI tăng mạnh là điểm sáng trong bức tranh chung
Tỷ trọng FDI toàn cầu của khu vực đã tăng vọt sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC) năm 2008 và tăng tốc trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ-Trung gần đây.
ASEAN thu hút mức cao kỷ lục gần 17% vốn FDI toàn cầu trong năm 2022, gần gấp đôi so với 4 năm trước. Thành tựu này phản ánh rõ ràng các nền tảng cơ bản vững chắc, nhân khẩu học thuận lợi và chuỗi cung ứng cạnh tranh của ASEAN.
Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng được hưởng lợi ở mức độ như nhau. Hơn 65% vốn FDI của khu vực đã đổ vào Singapore, tương đương trung bình tới 25% GDP của nước này. Nhưng điều này một phần là do vị thế chiến lược của Singapore là một trung tâm tài chính quan trọng.
Malaysia và Việt Nam cũng thu hút được dòng vốn FDI đáng kể. Tính đến thời điểm hiện tại, FDI mới vào lĩnh vực sản xuất của Việt Nam trong năm nay đã cao hơn mỗi năm trong ba năm gần đây.
Có hai chuỗi cung ứng được hưởng lợi nhiều nhất: Ngành công nghệ và xe điện (EV). Trong khi Singapore, Malaysia và Việt Nam là 3 quốc gia có thành tích vượt trội ở lĩnh vực công nghệ, Indonesia và Thái Lan là hai quốc gia được hưởng lợi chính ở lĩnh vực xe điện.
Để thấy được sức mạnh của FDI, Malaysia hiện chiếm 45% thị phần toàn cầu trong lĩnh vực bán dẫn. Ngoài lĩnh vực sản xuất, ngành dịch vụ tài chính của ASEAN cũng có những khởi sắc nhưng vẫn tập trung chủ yếu ở Singapore.
Từ trước đến nay, ASEAN có một nhóm các nhà đầu tư rất đa dạng, với vốn FDI, đặc biệt là từ: Mỹ, nội khối ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản, đổ vào lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực xương sống của khu vực.
Tuy nhiên, Trung Quốc đã bắt kịp nhanh chóng trong những năm gần đây, họ đầu tư mạnh vào các lĩnh vực mà mỗi nền kinh tế có lợi thế cạnh tranh, bao gồm: Điện tử gia dụng ở Việt Nam, chuỗi cung ứng xe điện ở Indonesia và Thái Lan cũng như ngành dược phẩm của Singapore. Ngoài sản xuất, các nhà đầu tư Trung Quốc cũng nhanh chóng đổ xô vào thị trường tiêu dùng đang mở rộng nhanh chóng của ASEAN.
FDI là điểm sáng trong bức tranh chung có nhiều gam màu xám.
Kể từ sau đại dịch COVID-19, thương mại toàn cầu đã phải hứng chịu nhiều trở ngại. Một sự chuyển dịch cơ cấu với việc người tiêu dùng gia tăng sử dụng dịch vụ thay vì hàng hóa và lạm phát tăng cao đã gây áp lực lên ví tiền của các nước phương Tây, từ đó tác động nặng nề lên các nhà xuất khẩu ASEAN.
Tuy nhiên, FDI, vốn phản ánh niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng dài hạn của một nền kinh tế, vẫn là một trong số ít điểm sáng trong khu vực. Bất chấp suy thoái thương mại ngắn hạn, HSBC cho rằng, sự gia tăng vốn FDI một cách nhất quán là rất quan trọng để khu vực này nâng cao chuỗi giá trị và củng cố tầm quan trọng của ASEAN trong thương mại toàn cầu.
Trong 30 năm qua, ASEAN đã chứng kiến nguồn vốn FDI dồi dào nhờ vào tiềm năng tăng trưởng to lớn, hiệu quả chi phí gia tăng, vô số hiệp định thương mại và quá trình chuyển đổi cơ cấu đang diễn ra, cùng nhiều hoạt động khác.
Trong khi khủng hoảng tài chính châu Á (AFC) làm suy giảm môi trường đầu tư của ASEAN, thì khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC) năm 2008-2009 là chất xúc tác quan trọng dẫn đến sự bùng nổ FDI trong khu vực, khi các công ty đa quốc gia tìm kiếm cơ hội đầu tư ở các nền kinh tế đang phát triển nhanh và có chi phí cạnh tranh.
Tổng vốn FDI vào ASEAN-6 đạt trung bình gần 128 tỷ USD mỗi năm trong giai đoạn 2010-2019, cao hơn khoảng 3 lần so với mức trung bình của thập kỷ trước. Tương tự, FDI ròng trung bình đạt gần 53 tỷ USD mỗi năm trong cùng kỳ, gần gấp 4 lần mức trung bình của thập kỷ trước.
Đặc biệt, xu hướng này càng gia tăng trong thời kỳ hậu COVID-19. Tổng vốn FDI tăng một cách đáng ngạc nhiên với mức tăng 45% lên trung bình khoảng 185 tỷ USD, với FDI ròng tăng gấp đôi lên 105 tỷ USD trong khoảng thời gian ngắn 2020-2022.
Quả thực, tỷ trọng FDI vào ASEAN-6 phản ánh rõ ràng xu hướng này. Trong khi ASEAN-6 thu hút không quá 6% vốn FDI của thế giới sau AFC, nguồn vốn này đã quay trở lại khu vực ở mức độ đáng kể hơn sau GFC, tăng lên khoảng 8% (trừ năm 2011 và 2015-16). Đặc biệt, FDI đã đạt mức cao kỷ lục mới kể từ khi đại dịch toàn cầu bắt đầu.
Năm 2022, ASEAN-6 đã thu hút gần 17% vốn FDI của thế giới, mức cao lịch sử cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của ASEAN đối với các nhà đầu tư. Thời điểm cũng không phải là ngẫu nhiên. Xét cho cùng, căng thẳng thương mại Mỹ-Trung đã thúc đẩy các nhà đầu tư đẩy nhanh việc di dời chuỗi cung ứng sang nơi khác, mà ASEAN nhờ vào địa lý lân cận và các tiêu chuẩn cơ bản được cải thiện, đã hiển nhiên nổi lên như một điểm đến thay thế.
Điều quan trọng cần lưu ý là kể từ sau GFC, phần lớn dòng vốn chủ yếu chảy vào Singapore, quốc gia thu hút gần 11% vốn FDI của thế giới vào năm 2022. Là một trung tâm tài chính khu vực, quy mô dòng vốn vào của Singapore không nhất thiết phải tương đương với các nền kinh tế khác.
Những điểm đến của dòng vốn đầu tư
Câu trả lời cho câu hỏi này phản ánh các cơ hội tăng trưởng của ASEAN. ASEAN đã chứng kiến một nhóm các nhà đầu tư rất đa dạng từ Mỹ, EU và châu Á trong các lĩnh vực khác nhau. Các nước Đông Bắc Á chiếm 1/3 dòng vốn FDI vào ASEAN từ lâu nhưng đầu tư nội khối ASEAN đã từ lâu trở thành nguồn cung cấp FDI hàng đầu nếu chúng ta tính đầu tư từ Đông Bắc Á theo nền kinh tế.
Quả thực, điều này phản ánh mạnh mẽ sự hội nhập kinh tế ngày càng tăng giữa các quốc gia thành viên ASEAN trong những năm qua, khi nhiều quốc gia đã tiến hành công nghiệp hóa trước đó (ví dụ: Singapore, Malaysia và Thái Lan) đổ tiền đầu tư vào các quốc gia đi sau có tiềm năng tăng trưởng, bao gồm Việt Nam và Indonesia.
Trong khi tỷ trọng FDI vào ASEAN theo nguồn vẫn ổn định, chúng ta cần ghi nhận sự xuất hiện của Mỹ với tư cách là quốc gia đầu tư FDI chính vào ASEAN. Trong 3 năm qua, Mỹ, với thị phần 17%, đã thay thế khu vực nội khối ASEAN (14%) để trở thành quốc gia đầu tư FDI lớn nhất trong khu vực, mặc dù cách biệt với tỷ lệ không lớn.
Sự thay đổi thú vị này phản ánh sự dịch chuyển chuỗi cung ứng của các nhà đầu tư Mỹ kể từ căng thẳng thương mại Mỹ-Trung. Mặc dù tạm thời bị gián đoạn bởi đại dịch nhưng đã nhanh chóng quay trở lại và tăng lên mức cao kỷ lục.
Mỹ là nhà đầu tư hàng đầu trong các lĩnh vực sản xuất và tài chính của ASEAN, với mỗi lĩnh vực chiếm gần 30% vốn FDI. Lợi thế của đầu tư này thể hiện rõ hơn ở lĩnh vực sản xuất, đồng thời là xương sống thu hút đầu tư nước ngoài của ASEAN. Mỹ đã rót trung bình 12 tỷ USD trong 5 năm qua, tương đương với tổng vốn FDI từ EU và ASEAN.
Điều đó cho thấy, một phần lớn FDI của Mỹ đã chảy vào ngành sản xuất tiên tiến, chẳng hạn như sản xuất chất bán dẫn cao cấp ở Singapore và Malaysia. Trong khi đó, Singapore cũng chiếm được thị phần FDI lớn nhất trong khu vực vào các hoạt động tài chính.
Ngoài Mỹ, các nhà đầu tư ASEAN cũng để mắt tới 2 trụ cột chủ chốt này. Thú vị là nguồn vốn FDI từ châu Âu lại hướng tới "bán buôn, bán lẻ và sửa chữa xe gắn máy" trong khi các nhà đầu tư Nhật Bản tập trung hơn vào "vận tải và kho bãi".
Sản xuất đứng thứ hai về FDI đối với mỗi thị trường này. Mặt khác, các nhà đầu tư Trung Quốc, vốn có truyền thống đầu tư mạnh vào bất động sản ASEAN, đã nhanh chóng bắt kịp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất đang phát triển nhanh của ASEAN.
Các quốc gia được lợi gì?
Mặc dù ASEAN nhìn chung đã nổi lên như một điểm thu hút đầu tư nhưng đó vẫn là một bức tranh không đồng đều. Như đã đề cập ở trên, Singapore từ lâu đã dẫn đầu khu vực với dòng vốn FDI cao tạo ra sự mất cân đối rõ rệt, đạt trung bình 25% GDP trong 5 năm qua.
Bên cạnh môi trường kinh doanh thuận lợi của Singapore, điều này còn nhờ vào vị thế đặc biệt là trung tâm tài chính của thế giới.
Các quốc gia khác như Việt Nam và Malaysia được hưởng lợi chính kể từ khi căng thẳng thương mại Mỹ-Trung bắt đầu và nhờ vào vị thế ngày càng quan trọng trong chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu khi những gã khổng lồ công nghệ đang tìm cách đa dạng hóa sự hiện diện địa lý của mình.
Trên thực tế, bỏ qua quy mô khổng lồ của mình, Singapore từ lâu đã được hưởng lợi từ ngành sản xuất hiện đại, đa dạng và có vốn đầu tư cao, bao gồm chip tiên tiến, dược phẩm và máy móc có độ chính xác cao. Thật vậy, sản xuất tiên tiến là ưu tiên hàng đầu của chính phủ khi họ nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng sản xuất của Singapore lên 50% vào năm 2030, từ mức cơ bản cao.
Kể từ khi thực hiện Đổi Mới vào năm 1986, Việt Nam đã nhận được dòng vốn FDI đáng kể, trở thành một ngôi sao đang lên trong chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu. Trong khi phần lớn khoản đầu tư ban đầu đổ vào lĩnh vực dệt may và giày dép có giá trị gia tăng thấp hơn, Việt Nam đã nhanh chóng thăng hạng trong chuỗi giá trị, phát triển thành trung tâm lắp ráp điện tử quan trọng.
Phần lớn thành công trong lĩnh vực công nghệ là nhờ lộ trình FDI kéo dài nhiều năm của Samsung tại Việt Nam: với khoản đầu tư 18 tỷ USD trong hai thập kỷ qua, một nửa sản lượng điện thoại thông minh của Samsung trên toàn cầu đến từ Việt Nam. Điều này cũng đã khuyến khích các gã khổng lồ công nghệ khác, đặc biệt là Apple, mở rộng hoạt động của họ.
Bất chấp những thách thức thương mại diễn ra gay gắt, HSBC nhận định, Việt Nam vẫn tiếp tục đi đầu trong việc thu hút FDI chất lượng. Đầu tư GI, đầu tư thành lập mới, tại Việt Nam đã tăng 40% so với cùng kỳ trong 8 tháng đầu năm 2023, trong đó riêng lĩnh vực sản xuất đã chiếm 85% tổng vốn FDI mới.
Đặc biệt, vốn FDI mới đổ vào lĩnh vực sản xuất từ đầu năm tới giờ đã vượt mức đầu tư mỗi năm trong ba năm vừa qua một cách đáng ngạc nhiên. Bất chấp suy thoái thương mại, xu hướng này mang lại hy vọng phục hồi cho Việt Nam khi chu kỳ kinh tế thay đổi.
Thu hút FDI vẫn là một bức tranh đa chiều tại ASEAN. Ngoài Singapore thì Việt Nam và Malaysia, với vị trí thuận lợi trong chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu, tiếp tục là những quốc gia có thành tích vượt trội, với mức phê duyệt FDI dao động quanh mức 3% GDP.
Ngọc Diệp
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|