Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý cho vay ngang hàng: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

(Banker.vn) Kinh nghiệm các quốc gia trong khu vực cho thấy, xu hướng phát triển nhanh chóng của mô hình cho vay ngang hàng (P2P Lending) đã khiến nhiều quốc gia trải qua sự thay đổi từ không quản lý sang cấp phép chặt chẽ đối với P2P Lending như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan để kiểm soát các rủi ro liên quan.
Kinh nghiệm các quốc gia trong khu vực cho thấy, xu hướng phát triển nhanh chóng của mô hình cho vay ngang hàng (P2P Lending) đã khiến nhiều quốc gia trải qua sự thay đổi từ không quản lý sang cấp phép chặt chẽ đối với P2P Lending như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan để kiểm soát các rủi ro liên quan. Các quốc gia thuộc khối ASEAN như Singapore, Malaysia, Thái Lan... đều đang nỗ lực hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về công nghệ tài chính nói chung, P2P Lending nói riêng để tạo sự cạnh tranh về môi trường kinh doanh nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực này và tạo động lực đổi mới sáng tạo. Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với P2P Lending để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia và khả năng hội nhập quốc tế của hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh khoa học, công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ.
 

 
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý P2P Lending tại Việt Nam
 
P2P Lending là mô hình vay mượn giữa những người trong cùng một nhóm (gia đình, tôn giáo, nghề nghiệp...) hoặc trong cùng một cộng đồng. Sự phát triển của công nghệ đã tạo đột phá cho mô hình P2P Lending từ P2P Lending vật lý sang P2P Lending trực tuyến, với sự mở rộng đáng kể của các đối tượng tham gia đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của mô hình này trong những năm gần đây. P2P Lending trực tuyến là một mô hình kinh doanh vận hành trên nền tảng kỹ thuật số, tập hợp người đi vay và người cho vay trên nền tảng số đó. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)1, hoạt động P2P Lending được thiết kế và xây dựng trên nền tảng công nghệ số, kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay (nhà đầu tư) mà không thông qua trung gian tài chính. Theo đó, toàn bộ hoạt động vay, trả nợ (gốc, lãi) giữa người đi vay và người cho vay được nền tảng giao dịch trực tuyến của công ty vận hành nền tảng (sau đây gọi là công ty P2P Lending) ghi nhận và lưu trữ bằng các bản ghi điện tử, số hóa trên hệ thống cơ sở dữ liệu của công ty P2P Lending, được đăng tải cho khách hàng đăng ký tham gia nền tảng truy cập.
 
Sự phát triển nhanh chóng và ngày càng gia tăng về quy mô của P2P Lending đang đặt ra những thách thức lớn đối với hệ thống pháp luật và chính sách quản lý của mỗi quốc gia. Cụ thể:
 
Thứ nhất, những quy định hiện hành về tín dụng hay huy động vốn trên thị trường tài chính truyền thống đều không phù hợp với mô hình hoạt động P2P Lending và cũng không phù hợp với các công ty cung cấp nền tảng đối với các dịch vụ này. Những lỗ hổng hành lang pháp lý sẽ gây cản trở cho sự phát triển của các mô hình này tại Việt Nam. Theo đánh giá của Trung tâm Nghiên cứu tài chính thay thế (CCAF) (2021), việc có khuôn khổ pháp lý phù hợp với các công ty P2P Lending sẽ góp phần thúc đẩy quy mô của các mô hình tài chính thay thế (alternative finance) này và khuôn khổ pháp lý là lý do cho khoảng 12% sự khác biệt của quy mô mô hình tài chính mới tại các quốc gia trên thế giới.
 
Thứ hai, việc chưa được nhìn nhận đúng về bản chất khiến P2P Lending tại Việt Nam dễ bị lợi dụng, biến tướng và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với những người tham gia. Do chưa xác định được bản chất của hoạt động P2P Lending, tồn tại thách thức trong việc cấp giấy phép kinh doanh cho loại hình doanh nghiệp cung cấp nền tảng P2P Lending tại Việt Nam. Danh mục loại hình kinh doanh này chưa có trong danh mục ngành nghề kinh doanh. Việc không xác định đúng bản chất ngành nghề sẽ gây khó khăn trong việc đánh thuế, gây những thất thoát hoặc không công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế giữa công ty cung cấp nền tảng P2P Lending với các công ty công nghệ, hoặc các tổ chức tài chính cũng có bản chất cung cấp các loại dịch vụ tài chính tương tự.
 
Thứ ba, thiếu biện pháp quản lý, giám sát khiến các hoạt động P2P Lending không đảm bảo chất lượng hoạt động, thể hiện ở việc quảng cáo không minh bạch về mức lợi nhuận, không cung cấp hoặc cung cấp thông tin thiếu chính xác về các rủi ro mà các bên tham gia có thể gặp phải; đưa ra mức lãi suất cao phi thực tế để lôi kéo người cho vay tham gia... Đặc biệt, nếu xảy ra tranh chấp do việc không đòi được các khoản đã cho vay, người cho vay có thể mất tiền, khó truy đòi trách nhiệm từ các công ty cung ứng nền tảng P2P Lending.
 
Thứ tư, việc hoàn thiện khung khổ pháp lý quản lý và giám sát P2P Lending phù hợp với định hướng chính sách của Đảng, Chính phủ về thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Đề án Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu của Đề án là bảo đảm môi trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ và kinh tế truyền thống; bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mô hình và khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số và phát triển nền kinh tế số. 
 
Thứ năm, để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và cải thiện môi trường kinh doanh, cần phải hoàn thiện khung khổ pháp lý đối với công nghệ tài chính nói chung, P2P Lending nói riêng. Tại khu vực Đông Nam Á, đã có 04 quốc gia xây dựng cơ chế Sandbox là Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Các quốc gia này hiện đều đã ban hành các quy định cụ thể, thể hiện rõ quan điểm và lập trường của chính phủ trong quản lý và giám sát hoạt động P2P Lending. Theo khảo sát của Tập đoàn United Overseas Bank Limited (UOB), các doanh nghiệp Fintech tại Việt Nam vẫn chưa phát triển bằng các nước ASEAN khác trong khu vực. 28% công ty Fintech sẽ chọn Singapore làm nơi đặt trụ sở, so với tỷ lệ 13% công ty sẽ chọn Việt Nam. Singapore hiện là trung tâm Fintech khu vực, với 45% số doanh nghiệp đặt trụ sở và chiếm 51% tổng vốn đầu tư vào Fintech tại ASEAN. Do đó, để thực hiện mục tiêu về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, sử dụng khoa học công nghệ làm động lực tăng trưởng trong giai đoạn mới, đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với công nghệ tài chính nói chung, P2P Lending nói riêng.
 
2. Kinh nghiệm của một số quốc gia châu Á trong hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý P2P Lending
 
Các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là quốc gia thuộc khối ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Indonesia… đều đang nỗ lực hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về công nghệ tài chính nói chung, P2P Lending nói riêng để tạo sự cạnh tranh về môi trường kinh doanh nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực này và tạo động lực đổi mới sáng tạo. Một số các quy định cụ thể gồm:
 
(i) Quy định đối với các công ty cung cấp các nền tảng P2P Lending 
 
Tại Trung Quốc, khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động P2P Lending tác động mãnh mẽ tới các giai đoạn phát triển của P2P Lending tại quốc gia này. Vào giai đoạn 2007 - 2015, hoạt động P2P Lending mang tính chất tự phát trong do chưa có các quy định pháp lý về quản lý và giám sát đối với mô hình tài chính này. Việc thiếu giám sát đã tạo điều kiện cho nhiều nền tảng P2P Lending gian lận, tạo quỹ bất hợp pháp, quảng cáo sai sự thật; nhiều nền tảng phá sản, làm mất tiền của nhà đầu tư. Trước những hệ lụy xấu mà các công ty P2P Lending mang lại cho nền kinh tế, Chính phủ Trung Quốc đã chuyển từ quan điểm không quản lý sang siết chặt quản lý, giám sát hoạt động này. Thậm chí, cơ quan chức năng Trung Quốc phát thông điệp cảnh báo người cho vay nên chuẩn bị tinh thần mất trắng số tiền đầu tư vào các sản phẩm lợi nhuận cao. Ngày 24/8/2016, với những khủng hoảng đã diễn ra trong lĩnh vực P2P Lending, Chính phủ Trung Quốc công bố quy định các biện pháp tạm thời quản lý hoạt động kinh doanh của các trung gian thông tin P2P Lending. “Các biện pháp tạm thời về quản lý thông tin P2P Lending giữa các bên trung gian”, nêu rõ 12 “ranh giới đỏ” mà các công ty P2P Lending không được làm. Sau thời gian chuyển tiếp 12 tháng, tất cả các nền tảng P2P Lending không được phép gửi tiền, cho vay, quảng cáo ngoại tuyến và quản lý các sản phẩm tài chính. “Các biện pháp tạm thời về quản lý thông tin P2P Lending giữa các bên trung gian” bao gồm 47 điều khoản, chia thành 05 phần, điều chỉnh tất cả các vấn đề của cho vay trực tuyến. Không tuân thủ quy định này có thể bị phạt hành chính hoặc hình sự. Một số nội dung chính gồm:
 
- Định nghĩa mô hình P2P Lending: Các công ty P2P Lending được định nghĩa là các trung gian cung cấp thông tin cho vay trực tuyến, cung cấp người dùng với những chức năng chính: Thu thập và xác thực thông tin; công bố và chia sẻ thông tin; đánh giá tín dụng mà không đưa ra bất cứ loại hình đảm bảo nào và khớp lệnh giao dịch. Như vậy, mô hình kinh doanh của các công ty P2P Lending là trung gian thông tin, không phải trung gian tín dụng.
 
- Về đăng ký hoạt động: Các công ty cung ứng hoạt động P2P Lending cần có giấy đăng ký kinh doanh, sau đó phải nộp hồ sơ đăng ký hoạt động môi giới thông tin P2P Lending cho cơ quan quản lý tài chính địa phương và cơ quan cấp phép hoạt động truyền thông.
 
Bảng 1: Các dịch vụ, hoạt động được phép và bị cấm đối với công ty P2P Lending tại Trung Quốc

- Các quy tắc nghiệp vụ và quản lý rủi ro: Thông qua quy định về các hoạt động, dịch vụ mà nền tảng P2P Lending được phép thực hiện (Bảng 1) và đưa ra các hạn mức đối với các khoản vay.
 
Về hạn mức, chỉ được cho vay các khoản vay có giá trị nhỏ và công ty P2P Lending phải quy định các hạn mức tín dụng tối đa đối với từng khoản vay và/hoặc từng người vay; cụ thể: Hạn mức tại một công ty cung ứng dịch vụ P2P Lending đối với cá nhân tối đa là 200.000 CNY (tương đương 723 triệu VND), pháp nhân tối đa 1.000.000 CNY (tương đương 3,6 tỷ VND); hạn mức tại tất cả các công ty P2P Lending đối với các nhân tối đa là 1.000.000 CNY (tương đương 3,6 tỷ VND) và pháp nhân tối đa là 5.000.000 CNY (tương đương 18 tỷ VND).
 
Năm 2018, Chính phủ Trung Quốc yêu cầu địa phương tổng điều tra, tiến hành đăng ký, cấp phép đối với toàn bộ các nền tảng, đồng thời đưa ra 10 biện pháp giảm thiểu rủi ro từ hoạt động này, gồm: Chính quyền địa phương phải thiết lập kênh đối thoại để phản hồi yêu cầu của nhà đầu tư, kiểm tra các nền tảng này; chính quyền địa phương không được cấp phép cho bất kỳ nền tảng mới nào; những người vay tiền chây ỳ trả nợ sẽ bị đưa vào danh sách đen trong hệ thống xếp hạng tín dụng; hoạt động tuyên truyền cũng được đẩy mạnh để nâng cao nhận thức rộng rãi về mức độ rủi ro của hoạt động P2P Lending. 
 
Năm 2019, nhằm đảm bảo nguồn vốn vay quan trọng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Ủy ban Điều tiết Ngân hàng và Bảo hiểm Trung Quốc (CBIRC) đã đề xuất thêm một số biện pháp kiểm tra hoạt động kinh doanh của các sàn cho vay P2P Lending. Cụ thể: Các công ty P2P Lending phải tự xem xét và báo cáo số liệu thống kê về các khoản vay chưa trả và không thực hiện được; các sàn phải công khai chi tiết các công việc của mình. 
 
Các quy định mới của Trung Quốc về P2P Lending được Moody đánh giá là tín dụng tích cực. Những thay đổi được thực hiện đối với hệ thống và các quy định được đưa ra sẽ bảo vệ tốt hơn cho người cho vay, đồng thời giúp tránh rủi ro cho hệ thống tài chính. Các quy định đã có tác động tích cực khi các sàn trực tuyến yếu hơn hoặc có yếu tố lừa đảo sẽ không thể tồn tại.
 
Hình 1: Số lượng doanh nghiệp P2P Lending tại Trung Quốc

 
Tuy nhiên, việc liên tục ban hành các quy định siết chặt quản lý đối với P2P Lending đã khiến số doanh nghiệp P2P Lending giảm nhanh chóng (Hình 1), từ khoảng 3.500 doanh nghiệp năm 2015 xuống còn 2.500 doanh nghiệp năm 2016, 2.000 doanh nghiệp năm 2017 và đến năm 2018, còn khoảng 1.500 doanh nghiệp. Nhiều nền tảng của Trung Quốc có xu hướng thay đổi, dịch chuyển ra nước ngoài, đặc biệt là sang khu vực ASEAN. Thị trường P2P Lending của Trung Quốc đã bị ảnh hưởng bởi việc chiếm dụng tiền, tiêu chuẩn cho vay không rõ ràng và gian lận. Cuộc khủng hoảng P2P Lending tại Trung Quốc là bài học đắt giá cho các nhà quản lý ở các thị trường khác khi tìm cách điều tiết và kiềm chế mô hình tài chính này.
 
 Tại Thái Lan, Ủy ban Chứng khoán ban hành các quy định đối với P2P Lending với các nội dung chính: Người gây quỹ phải là công ty đã đăng ký tại Thái Lan với kế hoạch kinh doanh rõ ràng; huy động vốn cộng đồng phải diễn ra thông qua cổng tài trợ đã được phê duyệt. Những điều này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc sàng lọc các ứng dụng và giám sát việc tuân thủ. Người gây quỹ phải báo cáo kết quả chào bán cho Ủy ban Chứng khoán.
 
Nhằm kiểm soát rủi ro, một số giới hạn được đưa ra đối với số vốn huy động và số vốn mà nhà đầu tư được phép đầu tư cho một doanh nghiệp. Cụ thể: Doanh nghiệp khởi nghiệp/doanh nghiệp nhỏ và vừa được phép huy động từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ với trị giá 20 triệu Baht (tương đương 654 nghìn USD) trong 12 tháng và tổng 40 triệu Baht, kết hợp cả theo hình thức nợ hoặc vốn chủ sở hữu; doanh nghiệp khởi nghiệp/doanh nghiệp nhỏ và vừa được phép huy động từ các nhà đầu tư tổ chức như các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ tín thác, các nhà đầu tư tổ chức khác và không có giới hạn về quy mô huy động; giới hạn đầu tư: 100 nghìn Baht đối với mỗi nhà đầu tư nhỏ lẻ, theo tổng của cả hình thức nợ và vốn chủ sở hữu. Không giới hạn quy mô đầu tư đối với các nhà đầu tư tổ chức.
 
Tại Indonesia, việc ban hành các quy định quản lý đối với P2P Lending phải tuân thủ 02 nguyên tắc: (i) Cơ quan Dịch vụ tài chính Indonesia (OJK) ban hành quy tắc khi dịch vụ hoặc sản phẩm tài chính đã phát triển trên thị trường, nhưng không có quy định chi phối; (ii) Các quy định được ban hành nhằm mục đích hỗ trợ thị trường, hoặc để phát triển ngành công nghiệp và thị trường trong tương lai. Quy tắc được OJK tuân thủ khi ban hành Quy định số 77/POJK.01 /2016 (POJK 77) về dịch vụ cho vay dựa trên nền tảng công nghệ thông tin. OJK yêu cầu tất cả các công ty P2P Lending phải đăng ký (trạng thái đăng ký thường chỉ có hiệu lực trong một năm). Để có giấy phép hoạt động P2P Lending, công ty Fintech phải đáp ứng 11 thủ tục vận hành chuẩn (SOP); nếu không thể đáp ứng các yêu cầu, trạng thái đăng ký của công ty sẽ bị hủy. Để được cung ứng hoạt động P2P Lending, các nền tảng phải tuân thủ các quy định: Đăng ký với OJK và trong vòng 01 năm sau khi đăng ký họ có thể có được giấy phép P2P Lending nếu đáp ứng các yêu cầu về mặt cấp phép; hạn chế sở hữu nước ngoài trong các công ty P2P Lending (tỷ lệ sở hữu tối đa là 85%, bao gồm cả sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp); có số vốn tối thiểu là 1 tỷ Rupiah (IDR) khi đăng ký và tối thiểu là 2,5 tỷ IDR khi đăng ký giấy phép P2P Lending; đặt máy chủ ở Indonesia; duy trì một hệ thống điện tử an toàn và đáng tin, đảm bảo an toàn thông tin và bảo vệ dữ liệu khách hàng; nộp báo cáo định kỳ cho OJK (hằng tháng và hằng năm); thành phần ban lãnh đạo công ty cần có ít nhất 01 giám đốc và 01 ủy viên có kinh nghiệm ít nhất 01 năm trong ngành/lĩnh vực dịch vụ tài chính; sử dụng nguồn nhân lực có chuyên môn và/hoặc có nền tảng về công nghệ thông tin. Các công ty P2P Lending phải ký quỹ và có tài khoản định danh tại ngân hàng trong thời gian hoạt động; có quy trình vận hành chuẩn đối với chứng từ điện tử; thực hiện các nguyên tắc cơ bản về bảo vệ người dùng, đảm bảo tính minh bạch, công bằng, bảo mật dữ liệu và an ninh mạng cũng như thủ tục giải quyết tranh chấp đơn giản, dễ dàng; thực hiện chương trình phòng chống rửa tiền và chống khủng bố; cung cấp thông tin về khoản vay cho người cho vay và người đi vay; sử dụng các thuật ngữ, cụm từ và/hoặc ngôn ngữ Indonesia, đảm bảo dễ đọc, dễ hiểu trong các chứng từ điện tử; phải đăng ký làm thành viên của hiệp hội theo chỉ định của OJK. Nghiêm cấm công ty P2P Lending cung cấp bất kỳ sự bảo đảm nào (mặc dù OJK cho phép người bảo lãnh trong mô hình P2P Lending cung cấp bảo lãnh); đồng thời, quy định cũng yêu cầu công ty P2P Lending phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất nào do lỗi hoặc sơ suất của giám đốc hoặc nhân viên của công ty mình; tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác ngoài các hoạt động trong phạm vi kinh doanh của mình; hoạt động như người cho vay hoặc người đi vay; phát hành các phiếu ghi nợ; giới thiệu người cho vay hoặc người đi vay; quảng cáo sai sự thật hoặc cung cấp thông tin sai lệch; thu phí từ người cho vay và người đi vay khi họ nộp đơn khiếu nại. 
 
Tại Thái Lan, Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BOT) lần đầu tiên công bố ý định điều chỉnh hoạt động cho vay P2P Lending vào tháng 9/2018 và vào tháng 01/2019 đã ban hành dự thảo các quy định được đề xuất để lấy ý kiến ​​và nhận xét từ các bên quan tâm. Điều này gần như trùng hợp với sự sụt giảm nhanh chóng của thị trường cho vay P2P Lending ở Trung Quốc, nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều tiết ngành công nghiệp non trẻ này. Thái Lan - giống như một số thành viên ASEAN khác - đã lựa chọn đi trước một cách thận trọng và thiết lập một khuôn khổ quy định hợp lý ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển của khu vực địa phương. Vào ngày 29/4/2019, BOT đã ban hành Thông báo số 4/2562 xác định các quy tắc, thủ tục và điều kiện cho các doanh nghiệp và nền tảng P2P Lending. Thông báo là văn bản pháp luật đầu tiên của Thái Lan liên quan đến P2P Lending và nó cung cấp một số thông số mà các nhà cung cấp nền tảng P2P Lending và doanh nghiệp P2P Lending phải hoạt động. Nhà cung cấp nền tảng P2P Lending là người cung cấp hệ thống hoặc mạng điện tử cho hoạt động cho vay P2P Lending và người cho vay là thể nhân hoặc pháp nhân cung cấp khoản vay thông qua hệ thống hoặc mạng điện tử (không bao gồm các nhà cung cấp huy động vốn cộng đồng). Nhà cung cấp nền tảng P2P Lending phải: Không phải là một tổ chức tài chính (bao gồm các ngân hàng, mặc dù các công ty con của các ngân hàng được phép); là công ty tư nhân hoặc công ty đại chúng được thành lập tại Thái Lan; có vốn đầu tư ít nhất 5 triệu THB; và có ít nhất 75% tổng số cổ phần do người Thái nắm giữ. Các giám đốc của nhà cung cấp nền tảng phải “phù hợp và phù hợp”, nghĩa là họ không được dính líu đến hoặc bị cáo buộc gian lận hoặc tham nhũng, không được chứng minh sự thiếu bằng cấp hoặc tiêu chuẩn chuyên môn và phải vững vàng về tài chính. Các nhà cung cấp nền tảng bị cấm nắm giữ tiền, tài sản và chứng khoán của người cho vay và người đi vay, vì vậy cần phải có người giám sát đủ điều kiện. Người giám sát phải là người giám sát được ủy quyền theo quy định của Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) hoặc ngân hàng thương mại được ủy quyền (đối với tài khoản ký quỹ) theo quy định BOT.
 
(ii) Quy định đối với người đi vay
 
Tại Trung Quốc, theo “Các biện pháp tạm thời về quản lý thông tin P2P Lending giữa các bên trung gian” năm 2016, trách nhiệm của người đi vay: Cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ; sử dụng vốn vay đúng mục đích, đảm bảo khả năng hoàn trả; không được đồng thời vay tại nhiều nơi cho một khoản vay. Theo quy định mới năm 2019 tại Trung Quốc, người vay P2P Lending không trả được nợ sẽ bị phạt trong hệ thống xếp hạng tín dụng xã hội của Trung Quốc.
 
Tại Indonesia, đối với người đi vay (khách hàng), OJK ban hành Quy định số 77/POJK.01/2016 (POJK77) quy định chỉ những công dân Indonesia cư trú ở Indonesia mới đủ điều kiện là người đi vay. Số tiền vay tối đa cho mỗi người đi vay là mức 2 tỷ IDR (hoặc khoảng 160.000 USD). Bên cạnh đó, POJK77 yêu cầu hai thỏa thuận riêng biệt phải được ký kết giữa các bên: (1) thỏa thuận giữa bên cho vay và công ty P2P Lending và (2) thỏa thuận giữa bên cho vay và bên đi vay. Cả hai thỏa thuận phải được thực hiện theo quy định trong POJK77, trong đó có các thông tin về số tiền vay (bao gồm số tiền phạt trong trường hợp chậm thanh toán), lãi suất, quyền và nghĩa vụ của các bên và cơ chế giải quyết tranh chấp; hình thức của các thỏa thuận là thỏa thuận điện tử và chữ ký điện tử.
 
Tại Thái Lan, khách hàng vay phải là thể nhân: Có khả năng thanh toán các khoản nợ; không phải là nhà cung cấp nền tảng; không phải là giám đốc hoặc người được ủy quyền hoặc cổ đông lớn của nhà cung cấp; chưa nhận được các khoản vay cá nhân từ ba người cho vay. Thái Lan cũng ban hành quy định các hạn mức tín dụng để được vay, tùy thuộc vào hình thức cho vay. Khoản vay cho mục đích tiêu dùng phải tuân theo một hạn mức tín dụng phụ thuộc vào thu nhập của người đi vay hoặc số tiền mặt còn nợ. Nếu thu nhập trung bình hằng tháng dưới 30.000 THB, hạn mức tín dụng không được vượt quá 1,5 lần thu nhập trung bình hằng tháng hoặc số tiền còn nợ trong tài khoản tiền gửi của người tiêu dùng. Đối với những người vay có thu nhập trung bình hằng tháng là 30.000 THB trở lên, hạn mức tín dụng gấp 05 lần thu nhập trung bình hằng tháng hoặc số tiền mặt trong tài khoản tiền gửi của người tiêu dùng. Trong những trường hợp này, mức trung bình phải được tính từ thời gian 06 tháng trở lên. Nếu khoản vay nhằm mục đích kinh doanh, hạn mức tín dụng được quy định là 50 triệu THB. Trong các trường hợp trên, lãi suất cho các khoản vay được cung cấp thông qua nền tảng P2P Lending không được vượt quá 15% mỗi năm, như được quy định trong Bộ luật Dân sự và Thương mại của Thái Lan.
 
(iii) Quy định đối với người cho vay
 
Tại Trung Quốc, theo “Các biện pháp tạm thời về quản lý thông tin P2P Lending giữa các bên trung gian” năm 2016, trách nhiệm của người cho vay: Người cho vay cần được biết về các rủi ro phát sinh khi đầu tư; có năng lực nhận biết rủi ro; có kinh nghiệm về đầu tư sản phẩm tài chính không đảm bảo tiền gốc đồng thời thành thạo trong việc sử dụng Internet; cung cấp thông tin đầy đủ chính xác; nguồn tiền để cho vay phải hợp pháp và là nguồn vốn tự có (không được đi vay để cho vay lại); tự chịu trách nhiệm đối với các tổn thất do không thu hồi được gốc/lãi. Tháng 12/2017, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) và Ủy ban Quản lý ngân hàng Trung Quốc cùng ban hành các quy định mới đối với người cho vay, cụ thể: Tất cả các tổ chức cho vay cần công bố rõ ràng, đầy đủ phí, bao gồm lãi suất và các phí khác đối với các nhóm khoản vay khác nhau; người cho vay bị cấm tái tục tín dụng nhiều hơn 2 lần và phải đưa ra mức trần chi phí của mỗi khoản vay, mục đích để ngăn chặn người đi vay nhận khoản tín dụng mới để trả cho khoản vay cũ; vốn từ các khoản vay vi mô trực tuyến cũng bị cấm sử dụng để đầu cơ vào cổ phiếu và trả tiền cọc đầu tư bất động sản; các sản phẩm quản lý tài sản không được đầu tư vào sản phẩm được đảm bảo bằng khoản vay tiền mặt, khoản vay sinh viên hay khoản vay trả tiền đặt cọc bất động sản.
 
Tại Thái Lan, người cho vay phải có kiến ​​thức và hiểu biết về các khoản vay và rủi ro liên quan đến nền tảng P2P Lending bằng cách thực hiện đánh giá tính phù hợp của khách hàng trước khi cung cấp khoản vay. Người cho vay không được là nhà cung cấp nền tảng. Đối với những người cho vay cá nhân, số tiền không được vượt quá 500.000 THB trong vòng một năm.
 
3. Bài học đối với Việt Nam 
 
Thứ nhất, hầu hết các quốc gia trên thế giới ban hành các chính sách quản lý đối với P2P Lending thông qua việc áp dụng khuôn khổ pháp lý hiện hành đối với dịch vụ tài chính và bổ sung thêm các quy định đặc thù đối với các chủ thể tham gia (công ty cung cấp nền tảng, bên đi vay/huy động, bên cho vay/nhà đầu tư). Tuy nhiên, có những đặc điểm của mô hình tài chính hợp tác này mang tính chất đặc thù khiến việc tích hợp quy định như trên không phù hợp, cần thời gian để tạo ra và ban hành các quy định mới. Do đó, nhiều quốc gia có thị trường tài chính phát triển và hệ thống pháp lý dày dặn như Singapore,… cũng vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu, ban hành và sửa đổi các quy định pháp lý đối với P2P Lending. Do đó, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với P2P Lending, Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng, cập nhật các quy định hiện hành và bổ sung quy định mới khi cần thiết, trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và đặc điểm của hệ thống tài chính Việt Nam.
 
Thứ hai, các biện pháp quản lý đang được các quốc gia trên thế giới áp dụng đối với P2P Lending có thể phân loại thành: Các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo an toàn, ổn định hệ thống tài chính; các biện pháp quản lý cạnh tranh nhằm phát triển thị trường lành mạnh, hiệu quả; các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo lợi ích của các bên tham gia, đặc biệt là quyền truy cập thông tin, quản lý cơ sở dữ liệu. Cụ thể: 
 
- Các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo an toàn, ổn định tài chính bao gồm các chính sách để bảo vệ sự lành mạnh của hệ thống tài chính và hệ thống tiền tệ. Tác động của các mô hình như P2P Lending đối với ổn định hệ thống tài chính vẫn chưa có các bằng chứng thực nghiệm trên thực tế mà vẫn ở dạng nghiên cứu, dự báo. Tuy nhiên, tốc độ phát triển nhanh chóng và quy mô đáng kể của P2P Lending đã khiến nhiều quốc gia nâng cao cảnh giác, ban hành các quy định hạn chế rủi ro, áp dụng các tiêu chí đảm bảo an toàn vốn, giới hạn khoản vốn vay, vốn đầu tư qua mô hình này.     
   
- Các biện pháp về cạnh tranh trên thị trường: Các hành động chính sách gần đây của các quốc gia ASEAN như Thái Lan, Indonesia, Malaysia cho thấy việc hợp pháp hóa và các biện pháp khuyến khích các mô hình tài chính mới này sẽ thúc đẩy những thay đổi cơ bản trong khuôn khổ chính sách cạnh tranh, nhằm hạn chế độc quyền của các ngân hàng, tổ chức tài chính khi tham gia vào dịch vụ ngân hàng, tài chính, khuyến khích sự gia nhập của các công ty công nghệ, công ty Fintech, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này. 
 
- Quyền dữ liệu: Các quan niệm về quyền riêng tư dữ liệu, quyền sở hữu dữ liệu và giá trị dữ liệu đang phát triển với tốc độ nhanh chóng. Mặc dù thế giới vẫn chưa đạt được thỏa thuận toàn cầu về quyền truy cập dữ liệu liên quan đến chính sách dịch vụ tài chính nhưng các quốc gia đã chủ động ban hành các quy định đối với quyền sở hữu dữ liệu, nhằm đảm bảo an ninh, an toàn dữ liệu quốc gia (Trung Quốc, Singapore...).
 
Tại Việt Nam, Nhà nước cần xây dựng, triển khai đồng bộ, hiệu quả các chính sách tài chính, như ưu đãi thuế, phí, tiếp cận vốn, và cả phi tài chính, như khuyến khích và thu hút đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhằm thúc đẩy phát triển Fintech nói chung, P2P Lending nói riêng. Các chính sách cần tương thích giữa phát triển của các mô hình tài chính này với các mục tiêu chung của phát triển của thị trường tài chính, hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần ban hành các chính sách thúc đẩy ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam. 
 
Thứ ba, việc quản lý các hoạt động mà các công ty cung cấp các nền tảng P2P Lending là các nội dung quan trọng nhằm giảm thiểu các rủi ro liên quan tới hoạt động này. Những loại hoạt động mà các nền tảng P2P Lending thường được các nước cho phép cung cấp gồm (sắp xếp theo thứ tự phổ biến giảm dần): Khuyến mại cho các nhà đầu tư cá nhân; gây quỹ cho các tổ chức hợp nhất; nắm giữ tài sản của khách hàng để tạo điều kiện giao dịch; gây quỹ cho các cá nhân hoặc tổ chức không hợp nhất; truy cập vào dữ liệu tín dụng/giao dịch có liên quan về người dùng từ cơ quan đăng ký công khai hoặc dữ liệu mở được ủy quyền; hoạt động của thị trường thứ cấp; hoạt động của quỹ hoặc sản phẩm bảo hiểm nhằm mục đích bù đắp cho các nhà đầu tư trong trường hợp bị tổn thất. Các yêu cầu liên quan đến hệ thống và kiểm soát cũng rất phổ biến trong các khuôn khổ quy định áp dụng cho các nền tảng P2P Lending.
 
Thứ tư, thông tin đóng vai trò quan trọng trong mô hình P2P Lending, do đó, các quốc gia đều ban hành các biện pháp quản lý, yêu cầu về công bố thông tin nghiêm ngặt đối với các công ty cung cấp nền tảng. Các quy định về truyền thông, quảng cáo và khuyến mại thường được các quốc gia đưa ra nhằm đảm bảo thông tin liên lạc của các nền tảng P2P Lending với khách hàng là chính xác và không bỏ qua thông tin quan trọng. Hầu hết các quốc gia đã ban hành quy định đối với các nền tảng P2P Lending đều coi các quy định thông tin này là yêu cầu bắt buộc, từ các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ... cho tới Trung Quốc, các quốc gia thuộc ASEAN. Các nội dung chính trong quy định này gồm: Đảm bảo thông tin liên lạc với khách hàng chính xác và đầy đủ; tuân thủ các quy tắc chống rửa tiền (ví dụ: KYC) dành riêng cho loại hình công ty này; cung cấp thông tin chuẩn hóa cho các nhà đầu tư (ví dụ: Cảnh báo rủi ro, chi phí, cơ cấu khuyến khích...); tuân thủ các yêu cầu xử lý khiếu nại; tách biệt tài sản khách hàng với tài sản công ty; tuân thủ các yêu cầu quản trị bắt buộc (ví dụ: Quản lý rủi ro độc lập, kiểm toán nội bộ); đảm bảo đáp ứng các tiêu chí về tính đủ điều kiện trước khi gây quỹ (ví dụ: Tuổi công ty tối thiểu, khả năng sinh lời...); tiến hành kiểm tra mức độ tín nhiệm/khả năng chi trả đối với người vay; có kế hoạch “giảm nhẹ” để giảm thiểu tác động của lỗi nền tảng (ví dụ: Gói giải pháp); xác minh các tuyên bố của người gây quỹ (bao gồm cả thông qua bên thứ ba); cung cấp cho các nhà gây quỹ/nhà đầu tư quyền hủy bỏ; duy trì số vốn tối thiểu; tuân thủ các hạn chế về quảng cáo sử dụng các loại phương tiện cụ thể (ví dụ: Phương tiện truyền thông xã hội). 
 
Thứ năm, một trong các biện pháp quản lý rủi ro và để đảm bảo mục tiêu hoạt động của các mô hình tài chính mới này là hướng đến các nhóm đối tượng khó tiếp cận với định chế tài chính truyền thống, hầu hết các quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Malaysia… đều ban hành các quy định về giới hạn giá trị khoản vay hoặc giá trị của các khoản vốn huy động được thông qua các nền tảng. Một số quốc gia ban hành các quy định về giới hạn giá trị khoản vay mà nền tảng được phép thực hiện trong 12 tháng (Indonesia...), hoặc giới hạn số tiền mà một nhà đầu tư duy nhất có thể cung cấp cho một lần gây quỹ duy nhất (Indonesia...), giới hạn số tiền mà một cá nhân đầu tư theo một tỷ lệ phần trăm xác định của tài sản hoặc thu nhập của họ, giữ vốn tương ứng với tổng số tiền đã đầu tư vào nền tảng (Hàn Quốc, Thái Lan...).
 
Thứ sáu, để bảo vệ quyền lợi của khách hàng, các quy tắc liên quan đến quy trình xử lý khiếu nại, tách biệt tài sản của khách hàng và quản trị là các quy định phổ biến nhất được áp dụng bởi nhiều quốc gia (Anh, Indonesia, Thái Lan...). Thậm chí, Indonesia còn coi việc không có các quy trình xử lý khiếu nại là dấu hiệu để nhận biết các nền tảng lừa đảo. Ngoài ra, các quốc gia như Trung Quốc, Indonesia... cũng đồng thời thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao kiến thức tài chính người dùng, nâng cao nhận thức về rủi ro tài chính, rủi ro mất dữ liệu, nguy cơ mà các bên cho vay, nhà đầu tư phải đối mặt khi tham gia vào mô hình P2P Lending.
 
1 Theo Công văn số 5228/NHNN-CSTT ngày 08/7/2019 của NHNN về việc hoạt động cho vay ngang hàng.


ThS. Lưu Ánh Nguyệt
Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính
Theo: Tạp chí Ngân hàng
    Bài cùng chuyên mục