Giải pháp tăng cường phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố

(Banker.vn) Cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, các hành vi rửa tiền và tài trợ khủng bố cũng gia tăng, gây nhiều hệ lụy tiêu cực. Đây là cuộc chiến thực sự và đòi hỏi Việt Nam cần liên tục cập nhật, nhận diện và hoàn thiện các giải pháp đồng bộ nhằm ngăn chặn kịp thời và hiệu quả các hành vi này, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Tóm tắt: Cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, các hành vi rửa tiền và tài trợ khủng bố cũng gia tăng, gây nhiều hệ lụy tiêu cực. Đây là cuộc chiến thực sự và đòi hỏi Việt Nam cần liên tục cập nhật, nhận diện và hoàn thiện các giải pháp đồng bộ nhằm ngăn chặn kịp thời và hiệu quả các hành vi này, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

Từ khóa: Rửa tiền, tài trợ khủng bố, tội phạm, nguy hiểm, tái phạm...
 
Trong những năm gần đây, công tác phòng, chống rửa tiền gắn với cuộc chiến chống tội phạm tham nhũng ngày càng được Việt Nam coi trọng thực hiện thông qua các công cụ luật pháp, xây dựng và triển khai các chương trình phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm tham nhũng và các giải pháp đồng bộ khác
(Ảnh: Nguồn Internet)

I. Nhận diện và quy định xử lí hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố

1.1. Hành vi rửa tiền

Theo định nghĩa của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (Financial Aciton Task Force on Money Laundering - FATF), rửa tiền là “hành vi biến đổi các khoản thu nhập nhằm che đậy nguồn gốc phi pháp nguyên thủy của chúng”.

Theo  khoản 1 và 2 Điều 3 Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022: “Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có. Tài sản do phạm tội mà có là tài sản có được trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành vi phạm tội; phần thu nhập, hoa lợi, lợi tức, lợi nhuận sinh ra từ tài sản có được từ hành vi phạm tội”.

Người bị cáo buộc tội rửa tiền theo Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015, khi:

“a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có;

b) Sử dụng tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;

c) Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó;

d) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này đối với tiền, tài sản biết là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có”.

Theo Bộ luật Hình sự năm 2015, có 04 nhóm hành vi rửa tiền và bị xử lí như sau:

“Điều 324. Tội rửa tiền

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có;

b) Sử dụng tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;

c) Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó;

d) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này đối với tiền, tài sản biết là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Có tính chất chuyên nghiệp;

đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

e) Tiền, tài sản phạm tội trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

g) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

h) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a) Tiền, tài sản phạm tội trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia.

4. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

Theo Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền, khái niệm “tiền, tài sản” được hiểu là:

“1. Tiền bao gồm Việt Nam đồng, ngoại tệ; có thể là tiền mặt hoặc tiền trong tài khoản.

2. Tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá, các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, có thể tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lí chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó.

3. Tiền, tài sản do phạm tội mà có là tiền, tài sản có được từ hành vi phạm tội. Việc xác định hành vi phạm tội được căn cứ vào một trong các tài liệu sau đây:

a) Bản án, quyết định của Tòa án;

b) Tài liệu, chứng cứ do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cung cấp (ví dụ: Quyết định khởi tố vụ án, Kết luận điều tra, Cáo trạng...);

c) Tài liệu, chứng cứ khác để xác định hành vi phạm tội (ví dụ: tài liệu, chứng cứ của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), FATF, tài liệu tương trợ tư pháp về hình sự... ).”

Trong đó, việc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015 nếu thuộc các trường hợp sau:

- Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);

- Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);

- Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỉ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);

- Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó).

Nghị quyết nêu rõ: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội rửa tiền có thể được tiến hành đồng thời với việc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm nguồn và không loại trừ việc truy cứu trách nhiệm hình sự tội phạm nguồn.

Theo đó, tội phạm nguồn là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và tài sản có được từ tội phạm đó trở thành đối tượng của tội rửa tiền. Tại Điều 3 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP có nêu cụ thể 34 tội phạm nguồn và hướng dẫn cụ thể là: “Hành vi phạm tội nguồn có thể do công dân Việt Nam, pháp nhân thương mại Việt Nam, người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam thực hiện trong hoặc ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cũng được coi là tội phạm nguồn đối với hành vi phạm tội thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do công dân nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài thực hiện mà theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam, pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ sở tại quy định là tội phạm”.

Bên cạnh đó, Điều 4 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP đề cập một số tình tiết định tội, cụ thể:

- Hành vi tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các giao dịch tài chính, ngân hàng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 324 của Bộ luật Hình sự là thực hiện, hỗ trợ thực hiện hoặc thông qua người khác để thực hiện, hỗ trợ thực hiện một trong các hành vi sau đây nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có, bao gồm: Mở tài khoản và gửi tiền, rút tiền tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Góp vốn, huy động vốn vào doanh nghiệp; Chuyển tiền hoặc chuyển giá trị; Tham gia phát hành chứng khoán…

- Hành vi tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các giao dịch khác: Hoạt động casino, tham gia trò chơi có thưởng, mua bán cổ vật…

- Hành vi sử dụng tiền, tài sản phạm tội vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh, dùng tiền, tài sản thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

- Hành vi sử dụng tiền, tài sản phạm tội để làm dịch vụ, xây dựng trường học, bệnh viện hoặc sử dụng dưới danh nghĩa tài trợ, từ thiện, viện trợ nhân đạo…

- Hành vi cản trở việc xác minh thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản phạm tội (ví dụ: cung cấp tài liệu, thông tin giả; không cung cấp, cung cấp không đầy đủ; hủy bỏ, tiêu hủy, sửa chữa, tẩy xóa tài liệu, chứng cứ…)

Đối với tình tiết định khung hình phạt, có 05 tình tiết định khung hình phạt như sau:

-  Lợi dụng chức vụ, quyền hạn quy định tại điểm b khoản 2 Điều 324 Bộ luật Hình sự là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn sử dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 324 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Điều 4 của Nghị quyết này.

-  Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm c khoản 2 Điều 324 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội rửa tiền từ 02 lần trở lên nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

-  Có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 324 Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi rửa tiền từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc rửa tiền làm nguồn thu nhập.

Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 324 Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội sử dụng công nghệ cao, móc nối với người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc thủ đoạn gian dối, mánh khóe khác để tiêu hủy chứng cứ, che giấu hành vi phạm tội, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.

Gây ảnh hưởng xấu đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia quy định tại điểm c khoản 3 Điều 324 của Bộ luật Hình sự là trường hợp hành vi phạm tội làm ảnh hưởng đến tính ổn định hoặc gây ra nguy cơ mất ổn định hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia.

1.2. Hành vi tài trợ khủng bố

Tài trợ khủng bố, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013 của Việt Nam là hành vi huy động, hỗ trợ tiền, tài sản dưới bất kì hình thức nào cho tổ chức, cá nhân khủng bố.

Căn cứ Điều 300 Bộ luật Hình sự năm 2015, được bổ sung bởi khoản 102 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2017 quy định về tội tài trợ khủng bố như sau:

“Điều 300. Tội tài trợ khủng bố

1. Người nào huy động, hỗ trợ tiền, tài sản dưới bất kỳ hình thức nào cho tổ chức, cá nhân khủng bố, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

2. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 7.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;

b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm”.

Như vậy, tội phạm tài trợ khủng bố có thể bị phạt tiền, truy cứu trách nhiệm hình sự, bị phạt quản chế, cấm cư trú, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Theo Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013:

“Điều 45. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức thực hiện hoạt động phòng, chống khủng bố theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Chỉ đạo cơ quan, đơn vị thuộc quyền sẵn sàng tham gia phòng, chống khủng bố theo quyết định huy động của người có thẩm quyền.

3. Tiếp nhận thông tin, báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố từ tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính; khi có cơ sở để nghi ngờ giao dịch liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố thì kịp thời báo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an và phối hợp xác minh làm rõ.

4. Phối hợp với Bộ Công an trong hợp tác quốc tế về phòng, chống khủng bố.”

“Điều 48. Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân

Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kịp thời xử lý hành vi phạm tội khủng bố, tài trợ khủng bố; phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan trong phòng, chống khủng bố theo quy định của pháp luật.”

II. Tác hại của hành vi rửa tiền và tài trợ khủng bố

Tài trợ khủng bố là hành vi tiếp tay, cung cấp các nguồn lực tài chính và vật chất, trực tiếp dung dưỡng, khuyến khích các hoạt động khủng bố của cá nhân và tập thể, gây nguy hại trực tiếp tới an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

Rửa tiền là công cụ đồng hành và cộng sinh với tội phạm tham nhũng, giúp tham nhũng ẩn mình, né tránh pháp luật và thụ hưởng “thành quả” tài sản có được từ tham nhũng. “Tiền bẩn” do tham nhũng thường được dùng để mua bất động sản, tài sản, chuyển cho người thân, đầu tư kinh doanh, lập doanh nghiệp, góp vốn mua cổ phần doanh nghiệp hoặc chuyển trái phép ra nước ngoài qua những kênh bí mật và công khai. Rửa tiền có nguồn gốc tham nhũng không chỉ gây thiệt hại cho nền kinh tế - tài chính quốc gia, mà còn dung dưỡng tình trạng tham nhũng, đe dọa sự lành mạnh chính trị và an ninh quốc gia do khép kín vòng tròn lợi nhuận phi pháp.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hằng năm, thế giới mất khoảng 1.000 tỉ USD thông qua các hoạt động hối lộ, tham nhũng. Hơn nữa, mỗi năm tội phạm tiến hành rửa tiền thành công từ 1.000 - 1.500 tỉ USD trên toàn thế giới, gây ra những tác hại khôn lường đối với kinh tế, xã hội và an ninh toàn cầu; riêng ở Anh cũng có tới hàng trăm tỉ USD được giới tội phạm quốc tế chuyển vào để tẩy rửa và tiêu xài. Tội phạm tham nhũng ở Trung Quốc rửa tiền và chuyển trái phép ra nước ngoài hàng trăm tỉ USD có nguồn gốc tham nhũng. Do đó, chống rửa tiền trở thành mặt trận ngày càng nóng bỏng và cũng là công cụ hiệu quả để chống tham nhũng trên cả phạm vi cầu và mỗi quốc gia.

Ở Việt Nam, vụ án rửa tiền có nguồn gốc tham nhũng đầu tiên đã được đưa ra xét xử. Tại phiên xử sơ thẩm (tháng 02/2017), Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã tuyên phạt bị cáo Giang Văn Hiển 12 năm tù vì tội “Rửa tiền” do mở 22 tài khoản ngoại tệ nhận và rút tiền “hoa hồng” giúp con trai là Giang Kim Đạt (nguyên quyền Trưởng phòng Kinh doanh Vinashinlines) tham ô số tiền hơn 259,5 tỉ đồng, dùng tiền đó mua 40 bất động sản trong nước và nước ngoài và mua đi bán lại 13 ô tô đứng tên mình và người thân trong gia đình…

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hoạt động rửa tiền ở Việt Nam là khó tránh khỏi, thậm chí là một quốc gia có nguy cơ khá cao, do nền kinh tế đang phát triển đi đôi với quy mô sử dụng tiền mặt; cơ chế phòng, chống rửa tiền còn những hạn chế, đặc biệt đối với các biện pháp phạt tiền và thu hồi tài sản phạm tội… Hơn nữa, trong bối cảnh thể chế chưa hoàn thiện và nền kinh tế vẫn còn giao dịch tiền mặt như ở nước ta, tham nhũng và tài trợ khủng bố dưới hình thức nhận tiền và gắn với rửa tiền cũng có nhiều cơ hội ẩn náu và hoành hành.

III. Một số giải pháp tăng cường phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố

Trong thời gian tới, để tăng cường phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, cần tập trung vào một số nhóm giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lí và tăng cường phối hợp kiểm tra, giám sát chấp hành các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Trước tình trạng hoạt động rửa tiền ngày càng tăng quy mô, đa dạng hình thức và mở rộng phạm vi, nhiều cơ quan chức năng quốc gia và quốc tế ngày càng tăng cường chống rửa tiền gắn với chống các loại tội phạm và nạn tham nhũng. Năm 2016, Singapore đã thành lập một đơn vị chuyên trách chống rửa tiền tại quốc đảo. FATF là cơ quan quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền trên toàn thế giới, có trụ sở tại Paris (Pháp), thường thực hiện những báo cáo đánh giá năng lực của các quốc gia trong việc ngăn chặn, đấu tranh phòng, chống rửa tiền. Quốc gia nào bị coi là không đáp ứng được các cam kết về phòng, chống rửa tiền thì sẽ bị liệt vào “danh sách đen” của FATF. Sau đó FATF sẽ gửi thông báo khuyến cáo cho các thể chế tài chính, các ngân hàng đầu tư trên toàn thế giới để các tổ chức này chặt chẽ hơn hoặc có thể từ chối các giao dịch về tài chính liên quan tới quốc gia đó. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới hình ảnh của quốc gia trên trường quốc tế và các tổ chức tài chính quốc tế có thể không hợp tác với quốc gia đó nữa, dẫn tới ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế đất nước.

Tăng năng lực phòng, chống rửa tiền, nhất là tiền có nguồn gốc tham nhũng, không thể tách rời với cuộc chiến chống tham nhũng, suy thoái, diễn biến và tự diễn biến trong nội bộ Đảng và bộ máy quản lí nhà nước. Trong những năm gần đây, công tác phòng, chống rửa tiền gắn với cuộc chiến chống tội phạm tham nhũng ngày càng được Việt Nam coi trọng thực hiện thông qua các công cụ luật pháp, xây dựng và triển khai các chương trình phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm tham nhũng và các giải pháp đồng bộ khác.

Từ tháng 5/2007, Việt Nam đã trở thành thành viên của APG (Nhóm châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền) và cam kết thực thi đầy đủ 40 khuyến nghị về chống rửa tiền và 09 khuyến nghị về chống tài trợ khủng bố của FATF.

Năm 2009, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng và thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền theo Quyết định số 470/QĐ-TTg ngày 13/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 18/6/2012, Quốc hội đã ban hành Luật số 07/2012/QH13 về phòng, chống rửa tiền. Luật Phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật Phòng, chống rửa tiền số 14/2022/QH15 có hiệu lực thi hành.

Theo đó, ngày 15/11/2022, Quốc hội đã ban hành Luật số 14/2022/QH15 về phòng, chống rửa tiền quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lí tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền; có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2023.

Ngày 05/8/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 941/QĐ-TTg) nhằm xây dựng một cơ chế phòng, chống rửa tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt có hiệu quả ở Việt Nam; thực hiện trách nhiệm thành viên của Việt Nam trong APG; bảo vệ tốt nhất lợi ích của quốc gia, của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế, góp phần phòng, chống tội phạm tham nhũng, rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, tăng cường sự ổn định của các tổ chức tài chính và các đối tượng báo cáo khác, góp phần bảo đảm an ninh, an toàn, trật tự xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Trên thực tế, tội phạm rửa tiền cũng được nhận diện và truy tố, xét xử theo Bộ luật Hình sự kể từ năm 1999, sửa đổi năm 2009; 2015 và 2017. Đặc biệt, sự phối hợp trong công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giữa các cơ quan chức năng liên quan cũng được tăng cường cả theo chiều dọc và theo chiều ngang.

Cụ thể, theo Quyết định số 64/QĐ-TTg ngày 08/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong công tác phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố, thì hoạt động phối hợp phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố phải được thực hiện thường xuyên, kịp thời, đảm bảo đúng nội dung, hiệu quả. Về nguyên tắc, phải đảm bảo phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan trong quá trình hoạt động; đảm bảo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phù hợp với các điều ước quốc tế Việt Nam đã tham gia, kí kết trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố. Bên cạnh đó, hoạt động phối hợp phải được thực hiện thường xuyên, kịp thời, đảm bảo đúng nội dung, hiệu quả và tuân thủ pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước. Chỉ sử dụng thông tin được cung cấp phục vụ công tác nghiệp vụ và công tác tố tụng khi đủ điều kiện.

Các hình thức phối hợp có thể được thực hiện như sau: Công văn, thư điện tử, điện thoại, fax; tổ chức họp trao đổi, lấy ý kiến; thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát liên ngành. Hình thức phối hợp được lựa chọn phù hợp với nội dung, điều kiện phối hợp cụ thể.

Nội dung phối hợp trong công tác phòng ngừa tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố gồm: Trao đổi và cung cấp thông tin về phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố; tuyên truyền về phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố; kiểm tra, giám sát các tổ chức trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Nội dung phối hợp trong công tác đấu tranh chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố, gồm: Trao đổi và cung cấp thông tin nghi ngờ về rửa tiền, tài trợ khủng bố; thành lập “đường dây nóng” để tiếp nhận, xử lí thông tin khẩn cấp về tài trợ khủng bố.

Các cơ quan chức năng như Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Xây dựng... thành lập và triển khai hoạt động nghiêm túc, hiệu quả các đoàn kiểm tra, giám sát các cấp và liên ngành các đối tượng báo cáo việc chấp hành các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong phạm vi, lĩnh vực quản lí tại địa phương. Việc thành lập đoàn kiểm tra, giám sát liên ngành có thể lồng ghép hoặc phối hợp với các đoàn kiểm tra, giám sát liên ngành khác có liên quan do tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ trì.

Đặc biệt, cần căn cứ vào yêu cầu kiểm tra, giám sát để cử các thành viên phù hợp, đảm bảo thực hiện hiệu quả.

Thực tế cũng cho thấy, phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố khó hiệu quả nếu không tiếp tục phát triển thể chế theo chuẩn mực quốc tế; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có liên quan như: NHNN, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng… trong việc hướng dẫn, kiểm tra chấp hành các quy định nhà nước liên quan của các tổ chức thuộc thẩm quyền quản lí; hoàn thiện Bộ luật Hình sự theo hướng bổ sung định danh những tội phạm mới như tội làm giàu bất chính, tội nhận quà biếu có giá trị lớn; bổ sung quy định tài sản do tham nhũng là đối tượng bắt buộc chứng minh và quy định về việc xử lí tài sản không minh bạch, tăng thêm mà không giải trình được nguồn gốc một cách hợp lí; làm rõ quyền và căn cứ xác minh tài sản, thu nhập tạo ra sự chủ động cho các cơ quan trong phát hiện dấu hiệu tham nhũng; bổ sung quy định về biện pháp phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, các tổ chức tín dụng; các giao dịch tài sản có giá trị lớn bắt buộc phải được thực hiện qua tài khoản tín dụng; tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế hiệu quả, hệ thống kê khai tài sản toàn diện và được giám sát chặt chẽ; phát triển tình báo và thanh tra tài chính trong việc xác định, phong tỏa và thu hồi tài sản do tham nhũng mà có; tăng cường vai trò giám sát của xã hội đối với việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; cho phép khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng; tích cực triển khai các thỏa thuận và phối hợp quốc tế về phòng, chống rửa tiền xuyên quốc gia và dẫn độ tội phạm bỏ trốn; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế nhằm nâng cao năng lực phòng, chống rửa tiền của các ngân hàng thương mại; xây dựng cơ chế sàng lọc các giao dịch tiền mặt lớn, giao dịch tiền mặt nhiều lần liên tục, xây dựng báo cáo tự động có thể báo cáo kịp thời trong nội bộ và cho cơ quan quản lí những giao dịch đáng ngờ, giao dịch bằng tiền mặt hoặc bằng ngoại tệ, vàng; xử lí nghiêm và tăng chế tài, tiền phạt đối với các hành vi không tuân thủ quy định, báo cáo giao dịch đáng ngờ.

Thứ hai, tăng cường trao đổi và cung cấp thông tin về phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Bộ Công an, NHNN chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong công tác phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố chủ động tổng hợp, cập nhật và cung cấp các thông tin về phương thức, thủ đoạn của tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố; kết quả điều tra, xử lí tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố theo đề nghị của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đáp ứng yêu cầu công tác đánh giá đa phương của APG đối với Việt Nam và các yêu cầu quốc tế Việt Nam đã cam kết thực hiện đảm bảo kịp thời, chính xác.

Phối hợp cùng các cơ quan báo chí tăng cung cấp thông tin cho nhân dân và doanh nghiệp: Chính sách pháp luật về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố; nguy cơ, diễn biến, tình hình các vụ án đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội rửa tiền và tài trợ khủng bố; thông tin về phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố; các vụ án đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội rửa tiền và tài trợ khủng bố; các tiến triển, yêu cầu, khuyến nghị của tổ chức quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố. Thành lập đường dây nóng tiếp nhận, xử lí các thông tin khẩn cấp về tài trợ khủng bố; công bố rộng rãi thông tin về đường dây nóng trên các phương tiện thông tin, báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh để nhân dân được biết.

NHNN làm tốt công tác thu thập, xử lí, phân tích thông tin về giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu nghi vấn rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố; chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc khi có cơ sở hợp lí nghi ngờ giao dịch được nêu trong báo cáo liên quan đến rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố đến cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Luật Phòng, chống rửa tiền; Luật Phòng, chống khủng bố.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cần thường xuyên rà soát, trao đổi các vụ việc, các cá nhân, tổ chức thực hiện các giao dịch tài chính nghi vấn liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố; cung cấp các thông tin phục vụ công tác xác minh, điều tra, xử lí vụ việc đảm bảo kịp thời, chính xác, bí mật; chỉ đạo đơn vị đầu mối, đơn vị nghiệp vụ được giao trực tiếp tiếp nhận, xử lí vụ việc, phối hợp chặt chẽ với đơn vị chuyển giao vụ việc thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ nhanh chóng rà soát, xác minh, thu thập thông tin về vụ việc được chuyển giao; thường xuyên trao đổi diễn biến, tình hình xử lí vụ việc với đơn vị nghiệp vụ chuyển giao vụ việc thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

Đối với các vụ việc có dấu hiệu của tội phạm rửa tiền, tội phạm tài trợ khủng bố, cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân thực hiện công tác phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền để thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết nguồn tin theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, tăng cường tính đồng bộ và trách nhiệm thực thi của các chủ thể xã hội trong công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Thực tế cho thấy, các biện pháp phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố phải thực hiện đồng bộ, kịp thời và nghiêm minh theo quy định của pháp luật, trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia; bảo đảm hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.

 Thực tế cũng cho thấy, công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố không dễ dàng, vì liên quan đến chứng minh, xác định chủ thể, tội danh; cũng như do tính bí mật, xuyên quốc gia và tính phức tạp của chúng, đặc biệt là do có liên quan đến những người có chức, có quyền...

Hơn nữa, cần đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố trong hoạt động kinh tế - xã hội; theo đó, cần xác định và kiểm soát nghiêm ngặt các hành vi bị cấm cả trong quản lí nhà nước nói chung, cũng như trong việc tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện thực hiện hành vi rửa tiền; thiết lập hoặc duy trì tài khoản vô danh, tài khoản sử dụng tên giả; thiết lập và duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng được thành lập tại một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, nhưng không có sự hiện diện hữu hình tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó và không chịu sự quản lí, giám sát của cơ quan quản lí có thẩm quyền; cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng tại một địa điểm khác; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống rửa tiền xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; cản trở việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền; đe dọa, trả thù người phát hiện, cung cấp thông tin, báo cáo, tố cáo về hành vi rửa tiền…

Đồng thời, yêu cầu các tổ chức tài chính - ngân hàng phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi khách hàng mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch với tổ chức tài chính; khi khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị lớn hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo; khi có nghi ngờ giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền; khi có nghi ngờ về tính chính xác hoặc tính đầy đủ của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập trước đó.

Các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp: Tổ chức, cá nhân kinh doanh trò chơi có thưởng, casino… phải tiến hành các biện pháp nhận biết khách hàng đối với các khách hàng có giao dịch có giá trị lớn; tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quản lí bất động sản, môi giới bất động sản, sàn giao dịch bất động sản có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi cung cấp dịch vụ môi giới mua, bán và quản lí bất động sản cho khách hàng.

Tổ chức, cá nhân kinh doanh kim loại quý, đá quý có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong trường hợp khách hàng có giao dịch mua, bán kim loại quý, đá quý có giá trị lớn bằng tiền mặt.

Tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng dịch vụ công chứng, kế toán, dịch vụ pháp lí của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; quản lí tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; quản lí tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; điều hành, quản lí hoạt động công ty của khách hàng; tham gia vào hoạt động mua, bán các tổ chức kinh doanh; các tổ chức cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư, dịch vụ thành lập, quản lí, điều hành doanh nghiệp, dịch vụ cung cấp giám đốc, thư kí của doanh nghiệp cho bên thứ ba có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi cung ứng các dịch vụ thành lập công ty; cung cấp dịch vụ đại diện cho công ty; dịch vụ ủy thác đầu tư; dịch vụ cung cấp người đại diện cho cổ đông.

Đồng thời, các đối tượng phải báo cáo trong hoạt động phòng, chống rửa tiền phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lí có hiệu quả các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của mình, với những nội dung chính gồm: Chính sách chấp nhận khách hàng; quy trình, thủ tục nhận biết khách hàng, xác minh và cập nhật thông tin khách hàng; giao dịch phải báo cáo; quy trình rà soát, phát hiện, xử lí và báo cáo giao dịch đáng ngờ; cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ; lưu giữ và bảo mật thông tin; áp dụng biện pháp tạm thời, nguyên tắc xử lí trong các trường hợp trì hoãn thực hiện giao dịch; chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho NHNN và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền; kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền.


Tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật Hình sự năm 2015.
2. Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022.
3. Luật Phòng, chống khủng bổ (sửa đổi, bổ sung năm 2022).
4. Quyết định số 64/QĐ-TTg ngày 08/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ.
5. Quyết định số 941/QĐ-TTg ngày 05/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
  

Minh Trí

Theo: Tạp chí Ngân hàng