Cần cơ chế, chính sách đồng bộ cho "tín dụng xanh" Điện Biên: Thu hút nguồn “tín dụng xanh” đầu tư cho năng lượng sạch Thêm nguồn vốn 100 triệu USD cho tín dụng xanh, phát triển bền vững |
Nhu cầu vốn lớn nhưng chưa được khơi thông
Tại hội thảo với chủ đề “Dẫn nguồn vốn lớn cho tín dụng xanh” vừa được Báo Đầu tư tổ chức vào ngày 4/12 cùng sự đồng hành của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dẫn thông tin từ Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, Việt Nam cần đầu tư thêm khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP/năm để thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trong đó, đầu tư vào khả năng phục hồi khoảng 254 tỷ USD và 114 tỷ USD cho hành trình khử carbon theo cam kết với cộng đồng quốc tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam sẽ cần khoản đầu tư khổng lồ trong thời gian tới.
Ông Lê Trọng Minh - Tổng biên tập Báo Đầu tư: Việt Nam cần đầu tư thêm khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP/năm để thích ứng với biến đổi khí hậu |
Còn theo bà Phạm Thị Thanh Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước), giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Đến ngày 30/9/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.
“Trong số 12 lĩnh vực xanh Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%). Các tổ chức tín dụng đã tăng cường đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng với dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt gần hơn 2,67 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 21%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế.” – bà Phạm Thị Thanh Tùng thông tin thêm.
Trên thực tế, thời gian qua hành trình chuyển đổi xanh đã được nhiều ngân hàng hưởng ứng tham gia mạnh mẽ và mang lại những kết quả bước đầu khá tích cực. Cụ thể, theo bà Phùng Thị Bình – Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank): Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang tập trung ưu tiên nguồn vốn, mở rộng cho vay có hiệu quả các dự án, chương trình phát triển sản xuất, kinh doanh khu vực nông nghiệp, nông thôn, nhất là các chương trình, dự án tạo ra giá trị tăng thêm, năng lượng sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Bà Lâm Thúy Nga - Giám đốc toàn quốc Khối khách hàng Doanh nghiệp lớn, Ngân hàng TNHH Một thành viên HSBC Việt Nam cho hay: HSBC đã là cầu nối dẫn vốn xanh vào thị trường Việt Nam với quy mô lên tới 2 tỷ USD.
Dù đã có sự tham gia tích cực của các tổ chức tín dụng, nhưng theo ông Lê Trọng Minh - Tổng biên tập Báo Đầu tư, với tổng số chưa đầy 600 ngàn tỷ đồng tín dụng xanh được các ngân hàng cung cấp đến nay, có thể thấy nguồn vốn xanh đầy tiềm năng này vẫn chưa hoàn toàn được khơi thông.
"Một nguồn lực lớn vẫn đang chực chờ không chỉ tại các ngân hàng trong nước mà còn từ các đối tác bên ngoài hiện cũng đang tỏ rõ sự quan tâm cao đối với các cơ hội mở ra từ quá trình xanh hóa tại Việt Nam" - ông Lê Trọng Minh cho biết.
Nhu cầu vốn tín dụng xanh tại Việt Nam đang rất lớn |
Làm gì để dẫn vốn vào tín dụng xanh?
Thừa nhận nhu cầu vốn cho tín dụng xanh tại Việt Nam đang rất lớn, bà Lâm Thị Thuý Nga cho rằng: Tín dụng xanh vừa là xu hướng vừa là vấn đề sống còn của nhiều doanh nghiệp, nhất là nhóm doanh nghiệp hàng xuất khẩu, họ đang chuyển đổi để phù hợp với thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đón nhận dòng vốn xanh thì còn nhiều yếu tố cần cải thiện, nhất là việc đáp ứng các quy chuẩn của thị trường tín dụng quốc tế.
Đối với HSBC, “khi xem xét dự án của khách hàng, ngoài tiêu chuẩn tín dụng xanh nghiêm ngặt của ngân hàng, chúng tôi còn xem xét tham vọng và sự nghiêm túc của doanh nghiệp đối với dự án xanh nói riêng cũng như phát triển bền vững nói chung. HSBC là định chế tài chính có hoạt động tại nhiều quốc gia, việc cung cấp một khoản vay cho khách hàng phải trải qua quá trình thẩm định nghiêm ngặt và phải tương thích với các tiêu chuẩn của Hiệp hội Thị trường cho vay châu Á – Thái Bình Dương, tiêu chuẩn này cũng cao hơn so với ngân hàng trong nước” – đại diện HSBC thông tin.
Ngoài việc đáp ứng các quy chuẩn của thị trường tín dụng quốc tế, ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cho rằng, để dẫn vốn vào tín dụng xanh thì các cơ chế, chính sách của Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong ban hành luật và cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp xanh thực hiện hoạt động sản xuất xanh vì người tiêu dùng.
Với cách tiếp cận như vậy, ông Nguyễn Bá Hùng cho rằng, việc đầu tiên cần làm là xây dựng các tiêu chuẩn với sản xuất xanh, tiếp đó là tài chính xanh. Hiện tại, hoạt động chuyển đổi sản xuất xanh đang dựa nhiều vào sự tự nguyện, ý thức chuyển đổi của doanh nghiệp, tuy nhiên xu hướng là Chính phủ ngày càng ban hành các quy định buộc doanh nghiệp phải áp dụng.
Trong bối cảnh đó, ADB có đưa các khuyến nghị, mà biện pháp cần thiết nhất và đầu tiên là tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về tài chính xanh phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời khung pháp lý này phải tương thích với thông lệ, chuẩn mực quốc tế để đảm bảo tính thống nhất và minh bạch.
“Việc hoàn thiện khung pháp lý sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tài chính xanh và đồng thời cũng thúc đẩy phát triển thị trường tài chính nói chung, đặc biệt là thị trường vốn. Cần hoàn thiện cả khuôn khổ luật lệ cho các ngành kinh tế xanh nói chung, và phát triển thị trường tài chính thông thường để tạo nền tảng cho tài chính xanh. Các khuôn khổ này có thể bao gồm yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện báo cáo bắt buộc tự đánh giá tác động của mình đến các tiêu chí xanh” ông Nguyễn Bá Hùng khẳng định.
Tại hội thảo, bà Phạm Thị Thanh Tùng - Phó vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước cho biết: Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện các giải pháp, chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động của ngành ngân hàng hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, góp phần hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Nguyễn Hòa
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|