(Banker.vn) Dù hành lang pháp lý cho tăng trưởng xanh đã từng bước được hoàn thiện song quy mô tín dụng xanh hiện chiếm tỷ lệ còn thấp so với tổng dư nợ toàn hệ thống. Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, cần sớm tháo gỡ các nút thắt về vốn, tiêu chí và cơ chế hỗ trợ, nếu không dòng vốn xanh sẽ khó tăng tốc.
Ngày 24/12, Viện Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh phối hợp với các đơn vị liên quan, cùng với sự đồng hành của VietinBank tổ chức Diễn đàn “Thị trường Tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô” nằm trao đổi chuyên sâu về các vấn đề trọng tâm của thị trường tín dụng trong giai đoạn hiện nay. TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tham gia và phát biểu tại Diễn đàn.
margin: 15px auto;" />Quy mô tín dụng xanh vẫn còn khiêm tốn
Trao đổi tại Diễn đàn, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, từ năm 2015, Chính phủ và ngành Ngân hàng đã bắt đầu tiếp cận tăng trưởng xanh một cách có hệ thống, ban đầu tập trung vào các lĩnh vực kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp sạch và nông nghiệp công nghệ cao, thể hiện qua Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Sau đó, Chính phủ tiếp tục ban hành hàng loạt nghị định, chỉ thị và quyết định liên quan đến tăng trưởng xanh, trong đó có Quyết định số 622/QĐ-TTg, Quyết định số 986/QĐ-TTg, Chỉ thị số 44/CT-TTg... Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác lập rõ định hướng phát triển gắn với mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.
Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, đây là những quyết định mang tính nền tảng, thể hiện rõ cam kết dài hạn của Việt Nam trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững. Gần đây, hành lang pháp lý tiếp tục được bổ sung với Quyết định 21/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 4/7/2025, quy định về tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh. TS. Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, văn bản này đánh dấu bước chuyển quan trọng, bởi trong thời gian dài trước đó, dù chủ trương đã được xác lập từ năm 2015, song các tổ chức tín dụng vẫn thiếu tiêu chí cụ thể để làm căn cứ.
Song song với các quyết định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản định hướng như chiến lược tăng trưởng xanh của ngành Ngân hàng, các văn bản hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường – xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, nhằm giúp các tổ chức tín dụng tiếp cận và triển khai tín dụng xanh một cách thận trọng, bảo đảm sản phẩm được sản xuất có khả năng tiêu thụ trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại đã từng bước triển khai tín dụng xanh. Nếu như năm 2017 mới chỉ có khoảng 15 tổ chức tín dụng quan tâm đến lĩnh vực này, thì đến nay, đã có khoảng 60 tổ chức tín dụng đã quan tâm và tham gia đầu tư. Tuy nhiên, quy mô vẫn còn hạn chế. Với tổng dư nợ toàn hệ thống khoảng 18,2 triệu tỷ đồng, dư nợ tín dụng xanh mới đạt khoảng 750.000 tỷ đồng, chưa tới 1 triệu tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân giai đoạn từ năm 2017 đến nay đạt khoảng 21%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung, song điểm xuất phát thấp khiến tỷ trọng trong tổng dư nợ còn rất nhỏ.
Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, tín dụng xanh hiện chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao, nông nghiệp sạch và năng lượng tái tạo – những lĩnh vực gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và cam kết phát thải ròng bằng “0”. Định hướng này phù hợp trong bối cảnh xu hướng tiêu dùng toàn cầu đang thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt sau đại dịch COVID-19, khi thị trường quốc tế ngày càng ưu tiên các sản phẩm thân thiện với môi trường, có nguồn gốc rõ ràng ngay từ khâu nguyên liệu đầu vào.

Hoàn thiện chính sách để thúc đẩy tín dụng xanh
Mặc dù đạt được một số kết quả bước đầu, song TS. Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, việc mở rộng tín dụng xanh hiện vẫn đối mặt với nhiều khó khăn mang tính căn bản. Trước hết là vấn đề nguồn vốn. Đầu tư xanh đòi hỏi nguồn vốn trung và dài hạn, do đó, cần có các chính sách hỗ trợ ổn định, có tính dài hạn, giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư.
Trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, TS. Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh việc điều chỉnh cơ chế giá là thẩm quyền của Nhà nước, song cần bảo đảm tính ổn định, giúp doanh nghiệp thu hồi vốn, trả được nợ ngân hàng và duy trì hoạt động. Đây là điều kiện tiên quyết để dòng vốn tín dụng có thể chảy vào lĩnh vực này một cách bền vững.
Một rào cản lớn khác là khung pháp lý chưa đồng bộ, đặc biệt là các quy định liên quan đến rủi ro môi trường, rủi ro xã hội và quản trị (ESG); tiêu chí phân loại dự án xanh chưa thống nhất giữa các bộ, ngành.
"Tín dụng xanh được xác định là lĩnh vực ưu tiên, thì ưu tiên theo cách nào? áp dụng cơ chế nào vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, khiến các tổ chức tín dụng khó chủ động giảm lãi suất cho vay", TS. Nguyễn Quốc Hùng đặt vấn đề.
Năng lực thẩm định dự án xanh cũng còn hạn chế do thiếu các tổ chức tư vấn và chuyên gia trong nước về đánh giá môi trường – xã hội. Nhiều ngân hàng buộc phải thuê chuyên gia quốc tế với chi phí cao, trong khi việc xây dựng bộ tiêu chí nội bộ và khung quản lý rủi ro chủ yếu do chính các tổ chức tín dụng tự bỏ kinh phí thực hiện. Dù vậy, TS. Nguyễn Quốc Hùng ghi nhận nhiều ngân hàng như Agribank, BIDV, Techcombank, TPBank, HDBank, Nam A Bank... đã chủ động xây dựng tiêu chí nội bộ để định hướng đầu tư.
"Thực tế cho thấy, số lượng doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này hiện chưa nhiều. Cơ chế, chính sách khuyến khích còn chưa rõ ràng, chưa cụ thể, khiến doanh nghiệp không yên tâm đầu tư do không thể xác định được hiệu quả lâu dài. Trong bối cảnh đó, các ngân hàng cũng không thể mạnh dạn đầu tư tín dụng vào lĩnh vực xanh nếu không bảo đảm khả năng thu hồi nợ. Đây là một trong những khó khăn mang tính căn bản", TS. Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.
Chia sẻ quan sát từ quá trình khảo sát thực tế tại một số quốc gia, trong đó có Úc, TS. Nguyễn Quốc Hùng cho biết, nhiều doanh nghiệp Úc không quá trông chờ vào việc Chính phủ hỗ trợ trực tiếp về nguồn vốn, mà họ cần một chính sách định hướng dài hạn, ổn định. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ chủ động huy động nguồn lực của mình, kết hợp với vốn thị trường, vốn tín dụng ngân hàng và các nguồn vốn quốc tế để xây dựng doanh nghiệp, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh và tiêu thụ được.
Từ thực tiễn đó, TS. Nguyễn Quốc Hùng kiến nghị cần nghiên cứu xây dựng cơ chế đánh giá và xếp hạng ưu tiên đối với các tổ chức tín dụng có dư nợ tín dụng xanh; xem xét dành một nguồn lực tái cấp vốn phù hợp cho tín dụng xanh trên cơ sở Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg; đồng thời đẩy mạnh đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ ngân hàng trong lĩnh vực ESG.
Bên cạnh đó, TS. Nguyễn Quốc Hùng đề xuất nghiên cứu thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng xanh theo mô hình hợp tác công – tư, sớm vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon, đồng thời xem xét chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp không chỉ đối với doanh nghiệp triển khai dự án xanh, mà cả đối với các tổ chức tín dụng cho vay trong lĩnh vực ESG.
"Tăng trưởng xanh là bài toán tổng thể, liên ngành. Chỉ khi khung pháp lý được hoàn thiện, chính sách đủ rõ ràng và ổn định, các ngân hàng mới có thể yên tâm phân bổ nguồn lực, qua đó giúp tăng trưởng xanh và kinh tế xanh thực sự trở thành nền tảng cho tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong giai đoạn tới", TS. Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.
Quỳnh Lê

