8 giải pháp nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước

(Banker.vn) Dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng hoạt động và đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Tại Hội nghị Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN diễn ra vào sáng ngày 24/3, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã đề xuất 8 giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp này.

Chưa thể hiện được vai trò dẫn dắt

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam hiện còn khoảng gần 500 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và gần 200 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trong số 350 doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước).

Chỉ riêng các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đang nắm giữ đã chiếm khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ DN trên thị trường. Theo tính toán sơ bộ, tổng tài sản của khối DNNN theo giá trị sổ sách năm 2021 là khoảng 4 triệu tỷ đồng; quy mô tài sản bình quân của 1 DNNN khoảng 4.100 tỷ đồng, cao gấp 10 lần DN có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần DN tư nhân trong nước.

Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của DNNN bình quân cả giai đoạn 2016 - 2020 là 10,46%, cao hơn mức lãi suất ngân hàng trong giai đoạn; tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân là 4,87%, cao hơn khối DN tư nhân trong nước là 1,26%. Về đóng góp cho ngân sách nhà nước (NSNN), DNNN đóng góp 28% tổng số thuế và các khoản phải nộp NSNN. Số thuế và các khoản phải nộp bình quân của DNNN là 576 tỷ đồng, gấp 43 lần DN có vốn đầu tư nước ngoài và 14 lần DN dân doanh.

“DNNN đóng vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng như: Dầu khí, điện lực, tài chính, ngân hàng, viễn thông, hạ tầng giao thông và sản xuất, cung ứng một số nguyên vật liệu đầu vào cơ bản cho nền nền kinh tế…” - ông Nguyễn Chí Dũng thông tin.

Tuy nhiên, kết quả hoạt động và đóng góp của khối DNNN trong thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, nhất là nguồn lực đang nắm giữ và thị trường đang chi phối. Cụ thể, các tập đoàn, tổng công ty về cơ bản chưa thực hiện được vai trò dẫn dắt, tạo động lực đối với nền kinh tế; hiệu quả hoạt động của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ; năng lực cạnh tranh, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo của các DNNN quy mô lớn vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu là lực lượng nòng cốt của kinh tế Nhà nước.

Đặc biệt, việc thực hiện các dự án đầu tư mới của DNNN trong thời gian qua không được thúc đẩy. Cụ thể, giai đoạn 2016-2020, rất ít dự án, công trình mới có quy mô lớn của DNNN được khởi công; các DNNN chỉ tiếp tục thực hiện các dự án dở dang hoặc xử lý các dự án không hiệu quả từ giai đoạn trước. Tính riêng đối với 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước (UBQLVNN) và Tập đoàn Viettel, nơi nắm giữ đến gần 90% nguồn lực của khu vực DNNN, chỉ triển khai thực hiện 3 dự án đầu tư nhóm A, trong đó có 2 dự án chuyển tiếp từ năm 2015 trở về trước và 1 dự án khởi công mới năm 2016.

Việc không tạo ra được năng lực tăng thêm này sẽ dẫn đến trong 5 năm tới, đóng góp của khu vực DNNN đối với nền kinh tế sẽ rất hạn chế khi tỷ trọng đóng góp hiện nay của DNNN vào GDP đang là khoảng 29%...

DNNN đóng góp 28% tổng số thuế và các khoản phải nộp NSNN

“Cởi trói” cho doanh nghiệp nhà nước

Trong bối cảnh Chính phủ đang tiếp tục nỗ lực xây dựng các giải pháp thúc đẩy hoạt động của DN Việt Nam, cùng với các chính sách hỗ trợ DN tư nhân, DN nhỏ và vừa đã được ban hành đồng bộ và có hiệu quả, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ pháp luật, cơ chế chính sách đảm bảo hiệu quả, hiệu lực để “cởi trói” DNNN, nhằm phát huy được lợi thế, khắc phục hạn chế, tận dụng cơ hội phát triển, hiện thực hóa vai trò, vị trí của DNNN trong nền kinh tế, bao gồm:

Thứ nhất, tăng đầu tư, tăng đổi mới sáng tạo và áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động để DNNN thực hiện vị trí, vai trò mở đường, dẫn dắt, tạo động lực cho nền kinh tế. Để làm được điều đó, cần có giải pháp cụ thể phát huy lợi thế, huy động và khai thác có hiệu nguồn lực mà DNNN đang quản lý và sử dụng. Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ chế vừa nâng cao hiệu lực, hiệu quả quyền của chủ sở hữu; vừa tạo điều kiện cho DNNN, đặc biệt là DNNN quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt trong các ngành kinh tế chủ lực. Cần phải có tư duy: DNNN đầu đàn, dẫn dắt cần phải “nghĩ lớn, làm lớn”, đầu tư các dự án quy mô lớn, có tính chất lan tỏa đối với nền kinh tế và các thành phần kinh tế khác.

Thứ hai, cần gắn phát triển DNNN với thực hiện chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Xác định rõ ngành, lĩnh vực then chốt cần có sự hiện diện của DNNN phù hợp với định hướng phát triển bền vững của đất nước (như năng lượng tái tạo, công nghiệp công nghệ cao, kết cấu hạ tầng quan trọng của quốc gia…). Khuyến khích các DNNN chuyển đổi mô hình phát triển hướng tới sử dụng năng lượng sạch, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững, bao trùm và nhân văn theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26.

Thứ ba, cần thay đổi nhận thức, quan điểm về cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư Nhà nước tại DN. Mục tiêu của cổ phần hóa, thoái vốn không phải là rút vốn Nhà nước ra khỏi DNNN, thu hẹp phạm vi, quy mô của khu vực DNNN, mà tái cơ cấu lại danh mục đầu tư, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị đầu tư của Nhà nước tại DN nói chung và của từng DNNN nói riêng.

Thứ tư, xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ về DNNN, tài sản Nhà nước để đánh giá, theo dõi và giám sát; qua đó, có định hướng phù hợp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý thông tin về DNNN trên nguyên tắc đo lường được, khách quan, kịp thời và minh bạch nhằm tăng cường giám sát hoạt động của DNNN tức thời, phát hiện sớm các rủi ro, ngăn ngừa sai phạm, thất thoát, lãng phí.

Thứ năm, các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là UBQLVNN tại DN cần phải thay đổi cách thức làm việc, chủ động thực hiện đầy đủ và hiệu lực các quyền chủ sở hữu tại DN theo quy định pháp luật và thông lệ quốc tế; không can thiệp vào quá trình điều hành, quản trị kinh doanh tại DN.

Thứ sáu, hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đối với DNNN thông qua việc phân công một bộ làm đầu mối quản lý Nhà nước thực hiện giám sát hoạt động của cơ quan đại diện chủ sở hữu, xây dựng định hướng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.

Thứ bảy, xây dựng cơ chế giám sát và nâng cao hiệu quả giám sát theo các phương thức: Đánh giá hiệu quả hoạt động, đầu tư theo chỉ tiêu tài chính tổng thể, không đi theo từng dự án, hoạt động cụ thể. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong thực hiện giám sát hoạt động của DNNN để đảm bảo hiệu quả trong việc phát hiện sớm các sai phạm, cảnh báo các nguy cơ làm DNNN bị thua lỗ, mất vốn Nhà nước.

Thứ tám, nghiên cứu cơ chế, chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DN, nhất là đối với quản lý cấp cao của DN. Đổi mới công tác quản lý cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao để tuyển dụng hoặc thuê cán bộ chất lượng cao, có thể xem xét cả các tổng giám đốc nước ngoài thí điểm tại một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty.

Khu vực DNNN có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, để khu vực doanh nghiệp này thực sự phát triển, đóng góp tích cực vào nền kinh tế, cần có những quyết sách quan trọng nhằm tạo động lực mạnh mẽ, khơi thông nguồn lực của DNNN.
Nguyễn Hòa
Theo Báo Công thương
Theo: Báo Công Thương