Xuất nhập khẩu bứt phá, nền kinh tế duy trì ổn định
Theo báo cáo tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11/2025, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, bội chi ngân sách và nợ công được quản lý chặt chẽ, trở thành một trong 10 điểm sáng nổi bật của nền kinh tế. Trong đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 11 tháng đạt gần 840 tỷ USD, tăng 17,2%, trong đó xuất khẩu đạt trên 430 tỷ USD, tăng 16,1%, nhập khẩu gần 410 tỷ USD, tăng 18,4%. Cán cân thương mại xuất siêu 20,53 tỷ USD, phản ánh khả năng chống chịu đáng kể của nền kinh tế trước các cú sốc toàn cầu.
margin: 15px auto;" />Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên báo cáo tại Phiên họp. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Báo cáo tại Phiên họp, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, trong tháng 11, ngành Công Thương tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực, bất chấp nhiều địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của mưa lũ, làm đình trệ hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nhiều tuần. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp tháng 11 đạt 2,3% so với tháng trước; lũy kế 11 tháng, ngành công nghiệp tăng 10,8%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,6%, mức cao nhất từ đầu nhiệm kỳ. Nguồn cung điện và xăng dầu được bảo đảm, giá cả ổn định, ngay cả tại những vùng bị thiên tai.
Thương mại trong nước cũng tăng trưởng tốt. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 11 tháng tăng 9,1%. Hàng hóa dồi dào, giá cả ổn định, không xảy ra khan hiếm, ngay cả tại các vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai. Với kết quả xuất nhập khẩu đạt được trong 11 tháng năm 2025, Bộ Công Thương dự báo tổng kim ngạch cả năm 2025 có thể đạt 920 tỷ USD hoặc cao hơn, đưa Việt Nam vào nhóm 15 quốc gia có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.
Dù chịu tác động của thuế đối ứng từ Hoa Kỳ, xuất khẩu sang thị trường này vẫn tăng 27% nhờ các đơn hàng từ trước, đặc biệt trong 8 tháng đầu năm. Tuy nhiên, kể từ khi áp thuế (tháng 8/2025), xuất khẩu theo từng tháng giảm dần, từ mức 1,97% tháng 8 xuống 7,1% tháng 11. Dù vậy, so với cùng kỳ, tốc độ tăng vẫn cao, cho thấy khả năng thích ứng của doanh nghiệp Việt.
Nội lực doanh nghiệp nội địa vẫn là thách thức
Theo ông Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu 11 tháng năm 2025 đạt 430,1 tỷ USD, tăng 16,1%, trở thành động lực quan trọng kéo nền kinh tế vượt khó. Trong đó, khu vực FDI đạt 327,7 tỷ USD, tăng 23,1% và chiếm 76,2% tổng xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 102,4 tỷ USD, giảm 1,7%. Điều này cho thấy nội lực sản xuất, xuất khẩu của khu vực trong nước chưa theo kịp đà phục hồi chung. Sự chậm cải thiện của khu vực công nghiệp trong nước khiến giá trị gia tăng và khả năng liên kết chuỗi cung ứng còn hạn chế.
Cũng theo ông Lâm, nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng cao, như điện tử, máy tính và linh kiện đạt 96,9 tỷ USD (tăng 48,5%) và máy móc, thiết bị hơn 53,3 tỷ USD (tăng 11,6%). Nông sản tiếp tục ghi dấu ấn khi xuất khẩu rau quả đạt 7,76 tỷ USD, tăng 17,3%, vượt mốc 7,12 tỷ USD của cả năm 2024, lập kỷ lục mới. Xuất khẩu thủy sản đạt 10,37 tỷ USD, tăng 12,6%, cũng vượt mức cả năm trước. Hai ngành này tận dụng tốt nhu cầu thị trường, mở rộng sản lượng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, trở thành điểm sáng trong bối cảnh áp lực toàn cầu.

Bộ Công Thương nhìn nhận, với đà hiện nay, trong cả năm 2025, xuất nhập khẩu Việt Nam có thể đạt mức khoảng 920 tỷ USD. Ảnh minh họa
Cán cân thương mại xuất siêu 20,53 tỷ USD, trong đó khu vực FDI xuất siêu 46,5 tỷ USD, còn khu vực trong nước nhập siêu 26 tỷ USD. Mức xuất siêu này phản ánh khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài, trong đó có việc Mỹ áp thuế đối ứng.
Điểm sáng không chỉ nằm ở số lượng mà còn ở chất lượng khi các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử và linh kiện đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy vậy, hoạt động xuất, nhập khẩu vẫn phụ thuộc khá lớn vào một số ít thị trường quốc tế và dòng vốn FDI, cảnh báo rủi ro nếu chuỗi cung ứng toàn cầu biến động mạnh.
Các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu vẫn duy trì đà tăng nhờ đơn hàng mới tăng tháng thứ ba liên tiếp, với chỉ số PMI tháng 11/2025 đạt 53,8 điểm, thị trường xuất khẩu ghi nhận những tín hiệu khả quan khi tốc độ tăng đơn hàng xuất khẩu mới đạt mức cao nhất trong 15 tháng qua.
Tuy vậy, các doanh nghiệp trong nước chưa tận dụng triệt để lợi thế này, khi nguồn lực cho công nghiệp hỗ trợ, R&D và logistics còn yếu. Nếu không sớm nâng cấp năng lực khu vực kinh tế trong nước, nền kinh tế sẽ khó tránh khỏi "bẫy gia công" và phụ thuộc quá mức vào nguồn cầu bên ngoài.
Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực nội tại
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, chuyên gia kinh tế và thương mại quốc tế, cho biết khoảng 74–75% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam hiện thuộc về khu vực FDI, phản ánh thực tế rằng nhà đầu tư nước ngoài tận dụng hiệu quả các ưu đãi từ các FTA hơn nhiều so với doanh nghiệp trong nước. Nguyên nhân chính là năng lực doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, cả về vốn, công nghệ và khả năng làm chủ sản phẩm. Phần lớn doanh nghiệp nội địa mới chỉ tham gia gia công, trong khi các sản phẩm công nghệ cao như điện thoại, chip, vật liệu mới vẫn do FDI nắm giữ.
Ông Lạng cho rằng, đây vừa là điểm yếu, vừa là cơ hội. Nếu doanh nghiệp Việt Nam nâng cấp công nghệ, đào tạo nhân lực và tạo ra sản phẩm chất lượng cao, lợi ích thu về sẽ lớn hơn nhiều. Việc tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu là hướng đi tất yếu để tránh “bẫy gia công giá rẻ”. Khi làm chủ công nghệ và có đội ngũ lao động chất lượng, giá trị tạo ra sẽ vượt trội.
“Khả năng kết nối của doanh nghiệp Việt Nam với các tập đoàn quốc tế hiện còn hạn chế, do nhiều nhà đầu tư lớn không muốn hợp tác với đối tác mà họ đánh giá “chưa đủ tầm”. Phần lớn doanh nghiệp vẫn nhỏ và vừa, khó đứng ngang hàng với các tập đoàn đa quốc gia. Vì vậy, chấp nhận vai trò nhà cung ứng bậc hai, bậc ba để từng bước thâm nhập chuỗi giá trị là cần thiết. Khi tích lũy đủ năng lực, doanh nghiệp có thể đảm nhận vai trò lớn hơn, phù hợp mục tiêu Nghị quyết 68-NQ/TW (năm 2025) đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn, đầu ngành tham gia sâu vào chuỗi giá trị sản xuất, cung ứng toàn cầu”, ông Lạng chia sẻ và cho rằng, việc nhận diện đúng điểm yếu và nỗ lực vươn lên sẽ giúp doanh nghiệp Việt dần làm chủ chuỗi cung ứng trong tương lai.
Cùng với sự nỗ lực của doanh nghiệp, theo ông Nguyễn Thường Lạng, Chính phủ cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí phi chính thức càng thấp càng tốt. Công tác ngoại giao kinh tế cũng phải được đẩy mạnh để tìm kiếm thị trường, đối tác, thu hút dòng vốn và mở rộng xuất khẩu.
“Chi phí logistics hiện quá cao do hạn chế đội tàu, kho lạnh và hạ tầng giao thông. Cải thiện các điểm nghẽn này sẽ giảm mạnh chi phí sản xuất – lưu thông, tạo động lực mở rộng thương mại và kết nối thị trường”, ông Lạng nói.
Dự báo thời gian tới tình hình vẫn tiếp tục phức tạp, để đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2025 và tạo nền tảng cho các năm tiếp theo, về phía cơ quan quản lý, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên kiến nghị, Chính phủ cần tập trung hỗ trợ người dân và doanh nghiệp khắc phục hậu quả bão lũ; hoàn thiện cơ chế, chính sách khôi phục sản xuất nông nghiệp;…
Bên cạnh đó, cần tháo gỡ khó khăn về thủ tục hành chính, thúc đẩy đầu tư và sản xuất kinh doanh, nhất là tại các khu vực bị thiên tai; xử lý các vướng mắc trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; tập trung hỗ trợ cho doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các cái hiệp định thương mại tự do, các thị trường truyền thống, thị trường tiềm năng, đặc biệt là những thị trường có tiềm năng tăng trưởng cao…
Việc nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, hỗ trợ doanh nghiệp khai thác FTA, mở rộng thị trường xuất khẩu truyền thống và tiềm năng, đặc biệt là những thị trường có tiềm năng tăng trưởng cao, được xác định là hướng đi chiến lược để Việt Nam duy trì đà tăng trưởng xuất nhập khẩu, gia tăng giá trị và nâng cao sức cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu.

