Từ những đóng góp sau hơn 12 năm thực hiện…
Thời gian qua, Luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết đã góp phần lành mạnh hóa hoạt động của các TCTD, hoàn thiện cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng như tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, giám sát hệ thống các TCTD. Các quy định của Luật các TCTD cũng đã chứng minh được sự phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu quản lý và định hướng cho hoạt động, phát triển các TCTD trong một thời kỳ khá dài, góp phần tạo sự ổn định về môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng.
Theo đó, Luật các TCTD đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo khung pháp lý ổn định cho hoạt động của hệ thống các TCTD. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, thi hành, triển khai Luật các TCTD được xây dựng, ban hành tương đối đầy đủ, kịp thời, đảm bảo chất lượng và đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Bên cạnh đó, Luật các TCTD đã tạo hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động của các TCTD. Luật đã quy định cụ thể phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD, trong đó lấy hoạt động của ngân hàng thương mại làm nền tảng khi quy định phạm vi hoạt động của các loại hình TCTD khác.
Đáng chú ý, Luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn Luật các TCTD đã tạo điều kiện cho các TCTD nâng cao chất lượng công tác quản trị, nâng cao năng lực quản trị rủi ro, tiếp cận dần với những chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong hoạt động ngân hàng. Luật Các TCTD đã tạo ra hành lang pháp lý để kiểm soát an toàn hệ thống các TCTD như: Các TCTD yếu kém được nhận diện và được cơ cấu lại, không để xảy ra đổ vỡ TCTD ngoài tầm kiểm soát. Các TCTD yếu kém được xử lý kiên quyết thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại, đảm bảo giữ vững sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD, bảo đảm an toàn tài sản của Nhà nước, nhân dân. Ngoài ra, Luật các TCTD đã góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng.
Về vấn đề xử lý nợ xấu của các TCTD, các quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42) đã tạo ra hành lang pháp lý cần thiết cho công tác xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC). Việc thực hiện Nghị quyết số 42 đã mang lại những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu và góp phần không nhỏ vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, thể hiện định hướng, chính sách đúng đắn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, tạo niềm tin đối với hệ thống các TCTD nói riêng và toàn bộ xã hội nói chung đối với công tác xử lý nợ xấu trong nền kinh tế.
… đến việc nhận diện những bất cập cần sửa đổi, bổ sung kịp thời…
Qua quá trình thực hiện cơ cấu lại các TCTD, cùng với việc phát triển, thay đổi mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Luật các TCTD đã bộc lộ một số hạn chế, cần nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của TCTD và thực tiễn quản lý của cơ quan nhà nước.
Các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành và hoạt động của TCTD cũng đang tồn tại một số vướng mắc với các Luật khác: Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã,... và phát sinh một số vấn đề liên quan đến nhiệm kỳ, quyền hạn, trách nhiệm của thành viên HĐQT, HĐTV trong quá trình áp dụng trên thực tiễn. Đặc biệt quy định về tổ chức, quản trị, điều hành và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân, Tổ chức tài chính vi mô cần tiếp tục rà soát, tham khảo kinh nghiệm, thông lệ quốc tế để sửa đổi, bổ sung phù hợp với sự phát triển của hệ thống QTDND, Tổ chức tài chính vi mô.
Ngoài ra, hoạt động của các TCTD đã có nhiều phát triển, một số nghiệp vụ của TCTD chưa được quy định tại Luật các TCTD gây khó khăn trong việc thực hiện, ví dụ như: hoạt động ngân quỹ, hoạt động giao đại lý thanh toán… Các quy định về xử lý TCTD tín dụng yếu kém đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017 tuy nhiên, trong quá trình triển khai thi hành, một số quy định tại Luật số 17/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD số 47/2010/QH12 cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp như quy định về khoản vay đặc biệt, tài sản bảo đảm khoản vay đặc biệt, kiểm soát đặc biệt TCTD…
Bên cạnh đó, để tăng cường chất lượng quản trị, điều hành TCTD, một số quy định của Luật các TCTD cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời như: điều chỉnh quy định về người có liên quan, tỷ lệ nắm giữ cổ phần của 01 cổ đông, nhóm cổ đông và người có liên quan của cổ đông, tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng, bổ sung trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ của người quản lý, điều hành TCTD để hạn chế việc thao túng trong hoạt động ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành của TCTD,...
Ngoài ra, Luật các TCTD còn một số tồn tại, hạn chế khác như: Các hoạt động của TCTD cần tiếp tục được hoàn thiện để phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế, ví dụ: quy định về thư tín dụng (L/C); quy định về nhận tiền gửi giữa các TCTD...; Một số vấn đề mới phát sinh hiện nay chưa được pháp luật quy định như: Hoạt động giao đại lý thanh toán; dịch vụ ngân quỹ của TCTD cho TCTD khác... Luật các TCTD được ban hành từ năm 2010, cho đến nay các Luật liên quan đã được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp… Do đó, một số quy định tại Luật các TCTD cần xem xét sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính thống nhất với các quy định của các Luật nói trên...
… và ý nghĩa của việc xây dựng Luật Các TCTD sửa đổi
Việc xây dựng Luật Các TCTD sửa đổi là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn của hệ thống TCTD, phát triển kinh tế, đổi mới hoạt động ngân hàng theo nội dung nhiệm vụ trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế theo định hướng, quan điểm, mục tiêu của Đảng, Quốc hội và Chính phủ.
Bên cạnh việc duy trì, tiếp tục tạo hành lang pháp lý trong hoạt động xử lý nợ xấu của các TCTD sau khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực từ ngày 31/12/2023, Luật Các TCTD sửa đổi còn kịp thời chỉnh sửa, hoàn thiện những quy định tại Luật Các TCTD hiện đã phát sinh bất cập.
Việc sửa đổi Luật Các TCTD cũng sẽ góp phần giúp cơ quan quản lý nhà nước tăng cường công tác quản lý hoạt động, xử lý các TCTD yếu kém, hạn chế và khắc phục xử lý sự cố khách hàng rút tiền hàng loạt tại TCTD phát sinh trong thời gian gần đây.
Bên cạnh đó, việc xây dựng Luật Các TCTD sửa đổi còn nhằm mục đích sửa đổi, bổ sung các quy định phòng ngừa rủi ro, tăng cường hơn nữa việc tự kiểm tra, kiểm soát nội bộ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng; xây dựng công cụ để quản lý các tổ chức tín dụng, đặc biệt kiểm soát chặt chẽ nhân sự quản lý, điều hành của TCTD; phát hiện sớm vi phạm và xử lý kịp thời trách nhiệm của các cá nhân quản trị, điều hành tổ chức tín dụng; tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân; bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng.
Ngoài ra, xây dựng Luật Các TCTD sửa đổi còn hướng tới mục tiêu thực hiện việc sửa đổi, bổ sung các công cụ để bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; có công cụ kiểm soát của Chính phủ; tăng cường các biện pháp thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước, đồng thời có tham gia của Thanh tra Chính phủ để quản lý, kiểm soát hoạt động tín dụng, chống thao túng, lợi ích nhóm, sở hữu chéo, kịp thời phát hiện và có chế tài xử lý nghiêm các vi phạm, bao gồm cả quản lý, phê duyệt nhân sự quản trị điều hành của TCTD; có quy định để kịp thời xử lý khi tổ chức tín dụng gặp rủi ro thanh khoản cũng như các biện pháp đặc biệt để xử lý tình huống người gửi tiền rút tiền hàng loạt và có cơ chế hiệu quả để cơ cấu lại tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt. Trong trường hợp cấp bách, đặc biệt thì tổ chức tín dụng được vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm; tuy nhiên, cần bảo đảm thu hồi tối đa khoản vay, hạn chế tối đa thiệt hại.
Việc sửa đổi Luật Các TCTD phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội cũng như chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Với các nội dung sửa đổi, Dự thảo Luật sẽ góp phần bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, tăng cường phòng ngừa rủi ro, xây dựng công cụ để quản lý các tổ chức tín dụng…
KY
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|