Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng điện tử tại Việt Nam

(Banker.vn) Bảo lãnh là một trong 09 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật Dân sự và được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực xã hội, nhất là trong các hoạt động của tổ chức tín dụng. Ngày 30/9/2022, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 11/2022/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng (Thông tư số 11/2022/TT-NHNN), trong đó, tại Điều 9 có điểm mới nổi bật là hoạt động bảo lãnh điện tử.
Tóm tắt: Bảo lãnh là một trong 09 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật Dân sự và được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực xã hội, nhất là trong các hoạt động của tổ chức tín dụng. Ngày 30/9/2022, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 11/2022/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng (Thông tư số 11/2022/TT-NHNN), trong đó, tại Điều 9 có điểm mới nổi bật là hoạt động bảo lãnh điện tử. Do còn hạn chế về quy định, việc triển khai áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng điện tử vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Bài viết giúp người đọc có cái nhìn rõ hơn về bảo lãnh ngân hàng điện tử, góp phần tạo lập quy trình áp dụng hoạt động bảo lãnh điện tử tại ngân hàng nói chung và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng (sau đây gọi chung là tổ chức tín dụng - TCTD) trong thời gian tới.
 
Từ khóa: Pháp luật, bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh ngân hàng điện tử, Việt Nam.
 
THE LAW ON ELECTRONIC BANKING GUARANTEE IN VIETNAM
 

Abstract: One of the nine mechanisms listed in the Civil Code to ensure commitments, the guarantee is frequently utilized in various facets of society, particularly in the operations of credit institutions. The Governor of the State Bank issued Circular No. 11/2022/TT-NHNN on September 30, 2022, which governs bank guarantees. An important new element in the Circular is Article 9’s discussion of electronic guarantee actions. The law on electronic bank guarantees is still being implemented, but it still faces many challenges because of regulatory restrictions and inadequacies. The article contributes to the development of a procedure for applying electronic guarantees at banks, as well as credit institutions in the near future, by giving readers a deeper understanding of electronic bank guarantees. 
 
Keywords: Law, bank guarantee, electronic banking guarantee, Vietnam.
 
Thời gian gần đây, ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng đang bước vào giai đoạn bùng nổ khi các ngân hàng liên tục cải tiến công nghệ, kĩ thuật theo hướng hiện đại hóa. Theo Thông tư số 11/2022/TT-NHNN, NHNN cho phép các TCTD và khách hàng sử dụng các phương tiện điện tử để thực hiện hoạt động bảo lãnh của mình. Điều này đặt nền móng pháp luật về hoạt động bảo lãnh điện tử tại Việt Nam khi bước vào giai đoạn hình thành và để công tác quy định quy trình nội bộ tại các ngân hàng được nhanh chóng triển khai, áp dụng, Nhà nước  cần tiếp tục ban hành hướng dẫn hoàn thiện và cần có những nghiên cứu để làm rõ nội dung liên quan, góp phần hoàn thiện hoạt động bảo lãnh điện tử trong thời gian tới.
 
1. Bảo lãnh, bảo lãnh ngân hàng điện tử tại Việt Nam
 
Trong đời sống xã hội, bảo lãnh là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến để thể hiện sự cam kết với tính chất là một hành vi pháp luật để bảo đảm nghĩa vụ nếu một bên không thể thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền. Thuật ngữ “bảo lãnh” được giải thích là: Bảo đảm người khác thực hiện một nghĩa vụ và chịu trách nhiệm nếu người đó không thực hiện; dùng tư cách, uy tín của mình để bảo đảm cho hành động, tư cách của người khác1. Ở góc độ kinh tế - xã hội, bảo lãnh chính là việc một chủ thể (cá nhân, tổ chức) dùng uy tín, năng lực, chuyên môn, tài chính của mình đứng ra bảo đảm về việc thực hiện nghĩa vụ của chủ thể khác.
 
Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ2. Bản chất của việc bảo lãnh là, bên bảo lãnh bảo đảm bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh3.
 
Khái niệm về “bảo lãnh ngân hàng” được quy định tại Luật Các TCTD là “hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD theo thỏa thuận”4. Bảo lãnh ngân hàng cùng với cho vay, chiết khấu, thư tín dụng, bao thanh toán là những hình thức cấp tín dụng phổ biến hiện nay. Ở hình thức bảo lãnh ngân hàng, một số loại bảo lãnh được phát hành và sử dụng chủ yếu như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền tạm ứng...
 
Theo xu thế chuyển đổi số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, Thông tư số 11/2022/TT-NHNN cho phép TCTD lựa chọn các phương tiện điện tử để thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng5. Có thể thấy, về định nghĩa, bảo lãnh ngân hàng là không thay đổi, chỉ là việc bổ sung phương thức điện tử vào bảo lãnh ngân hàng.
 
Hoạt động bảo lãnh đã xuất hiện trong đời sống kinh doanh, phát sinh từ nhu cầu tăng mức độ bảo đảm trong quá trình phát sinh giao dịch giữa các bên. Đối với hoạt động bảo lãnh điện tử, pháp luật đã cho phép ngân hàng tự quyết định biện pháp, hình thức, công nghệ thực hiện hoạt động bảo lãnh điện tử đối với toàn bộ hoặc từng khâu trong quy trình bảo lãnh và tự chịu rủi ro phát sinh (nếu có) và phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu sau: Có giải pháp, công nghệ kĩ thuật đảm bảo tính chính xác, bảo mật, an toàn trong quá trình thu thập, sử dụng, kiểm tra thông tin, dữ liệu; có biện pháp kiểm tra, đối chiếu, cập nhật, xác minh thông tin, dữ liệu; có biện pháp ngăn chặn các hành vi giả mạo, can thiệp, chỉnh sửa làm sai lệch thông tin, dữ liệu; có biện pháp đánh giá, quản lí, kiểm soát rủi ro; phân công trách nhiệm cụ thể của từng bộ phận, cá nhân có liên quan trong hoạt động bảo lãnh điện tử và trong việc quản lí, giám sát rủi ro6.
 
Trong trường hợp TCTD có thể nhận biết và xác minh thông tin nhận biết khách hàng qua phương tiện điện tử khi khách hàng lần đầu thiết lập mối quan hệ với TCTD thì phải có giải pháp, công nghệ kĩ thuật để thu thập, kiểm tra và đối chiếu thông tin, đảm bảo tối thiểu một số nội dung sau7:
 
Thứ nhất, đối với khách hàng là cá nhân phải bảo đảm sự khớp đúng giữa thông tin nhận biết khách hàng, dữ liệu sinh trắc học của khách hàng - đây là các yếu tố, đặc điểm sinh học gắn liền với khách hàng thực hiện định danh, khó làm giả, có tỉ lệ trùng nhau thấp như vân tay, khuôn mặt, mống mắt, giọng nói và các yếu tố sinh trắc học khác với các thông tin, yếu tố sinh trắc học tương ứng trên giấy tờ cần thiết nhằm nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền, theo yêu cầu của TCTD, hoặc với dữ liệu định danh cá nhân được xác thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bởi tổ chức cung cấp dịch vụ xác thực điện tử theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử.
 
Thứ hai, đối với khách hàng là tổ chức phải bảo đảm sự khớp đúng giữa thông tin nhận biết khách hàng tổ chức theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và tình trạng pháp lí của tổ chức với thông tin, dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng kí doanh nghiệp hoặc với thông tin, dữ liệu được xác thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bởi tổ chức cung cấp dịch vụ xác thực điện tử theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử; thông tin về cá nhân đại diện hợp pháp của tổ chức thực hiện giao dịch: Thực hiện nhận biết và xác minh thông tin của cá nhân thực hiện giao dịch theo quy định về nhận biết và xác minh khách hàng cá nhân theo quy định pháp luật nhằm bảo đảm khớp đúng với thông tin người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức căn cứ giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp và văn bản ủy quyền (trong trường hợp được ủy quyền).
 
Trường hợp TCTD nhận biết và xác minh thông tin nhận biết khách hàng qua phương tiện điện tử thì giá trị của mỗi cam kết bảo lãnh phát hành cho khách hàng cá nhân không được vượt quá 4 tỉ đồng và cho khách hàng tổ chức không được vượt quá 45 tỉ đồng, trừ các trường hợp sau: Thông tin nhận biết khách hàng được xác thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được xác thực điện tử thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ xác thực điện tử theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử; khách hàng gửi đề nghị cấp bảo lãnh bằng điện xác thực thông qua hệ thống SWIFT; thông tin khách hàng và nghĩa vụ được bảo lãnh được đối chiếu khớp đúng thông qua Cổng thanh toán điện tử Hải quan hoặc hệ thống mạng đấu thầu quốc gia; khách hàng sử dụng chữ kí số theo quy định của pháp luật khi đề nghị cấp bảo lãnh hoặc kí thỏa thuận cấp bảo lãnh với TCTD, khách hàng là TCTD8.
 
Theo quy định, hệ thống thông tin thực hiện các hoạt động bảo lãnh điện tử phải tuân thủ theo quy định về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 trở lên theo quy định của Chính phủ về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ và quy định của NHNN về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng9. TCTD phải lưu trữ, bảo quản thông tin, dữ liệu bảo lãnh điện tử theo quy định của pháp luật, bảo đảm an toàn, bảo mật và được sao lưu dự phòng đáp ứng tính đầy đủ, toàn vẹn của hồ sơ cho phép truy cập, sử dụng khi cần thiết hoặc để phục vụ công tác kiểm tra, đối chiếu, giải quyết tra soát, khiếu nại, tranh chấp và cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền10.
 
2. Lợi ích của việc áp dụng triển khai bảo lãnh điện tử
 
Thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN, đồng thời hưởng ứng thông điệp của Thủ tướng Chính phủ “Năm 2023 - năm Dữ liệu số, tạo lập và khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới”, ngày 01/4/2023, đánh dấu mốc hoạt động bảo lãnh điện tử bắt đầu có hiệu lực theo Thông tư số 11/2022/TT-NHNN là bước tiến phù hợp với sự phát triển của lĩnh vực ngân hàng tại các quốc gia trên thế giới. Tại Ấn Độ đã và đang có khá nhiều ngân hàng cung ứng sản phẩm bảo lãnh ngân hàng điện tử, có thể kể đến như: Axis Bank (Ngân hàng lớn thứ ba tại Ấn Độ với 4.759 chi nhánh trong nước11).
 
Pháp luật Việt Nam nghiên cứu và cho áp dụng hoạt động bảo lãnh ngân hàng điện tử góp phần cho thấy tầm quan trọng của quá trình chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ và đặc biệt là lợi ích của phương thức này mang lại, cụ thể:
 
Khi tối ưu hóa chuyển đổi số đang làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và ngày càng có nhiều dịch vụ được cung cấp dưới dạng điện tử, bảo lãnh ngân hàng điện tử ra đời, phù hợp với việc các ngân hàng đang ngày càng thay thế các tài liệu giấy truyền thống bằng các tập tin điện tử, từ đó, việc lưu trữ, truyền đạt thông tin được tiếp nhận nhanh chóng hơn. Lợi ích chính của việc thay thế tài liệu giấy truyền thống bằng bảo lãnh điện tử là chuyển giao bảo lãnh nhanh hơn, chi phí thấp hơn do tiết giảm được khoảng thời gian di chuyển đến trực tiếp ngân hàng để nhận bảo lãnh. Chẳng hạn với thủ tục đấu thầu trên trang http://muasamcong.mpi.gov.vn/ - hệ thống đấu thầu điện tử của Trung tâm Đấu thầu qua mạng quốc gia trực thuộc Cục Quản lý Đấu thầu hiện nay, với điều kiện để tham gia là nộp tất cả các tài liệu dưới dạng điện tử và yêu cầu cung cấp bảo lãnh dự thầu của một ngân hàng thì việc sử dụng bảo lãnh ngân hàng điện tử sẽ giúp bên dự thầu tiết giảm thời gian trong việc cung cấp bảo lãnh kèm theo, từ đó mang lại cho các khách hàng cơ hội trúng thầu khi bảo lãnh và hồ sơ kèm theo được chuyển đến người thụ hưởng một cách nhanh chóng, an toàn.
 
Bảo lãnh ngân hàng điện tử có thể cung cấp bảo lãnh ngân hàng cho khách hàng, đối tác nhanh hơn, an toàn và tăng cường bảo mật hơn so với bảo lãnh ngân hàng giấy truyền thống. Bảo lãnh ngân hàng điện tử sẽ được phát hành dưới dạng tệp PDF có chữ kí điện tử của người đại diện đủ thẩm quyền của ngân hàng, chữ kí đã được đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tức là có hiệu lực và đủ tiêu chuẩn an toàn. Về mặt pháp lí, hiện nay, một bảo đảm được lưu dưới dạng tệp điện tử và được kí bằng chữ kí điện tử đủ tiêu chuẩn theo khoản 1 Điều 22 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 hoặc được tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực xác nhận được xem là bảo đảm an toàn, đúng quy định.
 
Bảo lãnh ngân hàng điện tử làm tinh gọn quy trình phát hành hơn so với quy trình truyền thống. Do đã được trao quyền chủ động lựa chọn sử dụng các phương tiện điện tử trong hoạt động bảo lãnh điện tử, để hoạt động bảo lãnh điện tử được nhanh chóng và thuận tiện, các ngân hàng xem xét cải tiến quy trình, hệ thống bằng cách cho phép khách hàng có thể yêu cầu phát hành bảo lãnh ngân hàng điện tử trực tuyến trong hệ thống ngân hàng điện tử, tích hợp vào tính năng tài trợ thương mại trên ứng dụng điện tử, theo phương thức tạo yêu cầu điện tử hoặc đính kèm yêu cầu phát hành ở dạng giấy truyền thống. Hơn nữa, văn bản bảo lãnh được kí điện tử sẽ được ngân hàng gửi qua email cho khách hàng và/hoặc bên được bảo lãnh. Sau đó, ngân hàng cũng có thể gửi bảo lãnh điện tử trực tiếp đến địa chỉ email của người thụ hưởng nếu thông tin đã được cung cấp. Như vậy, thông qua công nghệ, các bên liên quan có thể tải bảo lãnh ngân hàng điện tử xuống một cách dễ dàng thông qua hệ thống ngân hàng điện tử.
 
Bảo lãnh ngân hàng điện tử mang lại sự an toàn cao hơn vì tính xác thực của chữ kí điện tử, có thể được kiểm tra nếu tích hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan hoặc chức năng tra cứu trên ứng dụng ngân hàng điện tử. Thay vì ở phương thức phát hành truyền thống, khi một cam kết bảo lãnh được giao đến bên nhận bảo lãnh thường sẽ kèm theo chứng từ chứng minh người kí kết trên cam kết ấy có đủ thẩm quyền (chẳng hạn quyết định bổ nhiệm, giấy ủy quyền…) thì với bảo lãnh điện tử, ngân hàng có thể tích hợp công bố danh sách đại diện ngân hàng được ủy quyền kí bảo lãnh điện tử trên trang web hay ứng dụng ngân hàng điện tử của ngân hàng. Khi đó, để xác nhận xem những người kí bảo lãnh điện tử có phải là người được ủy quyền hay không và chứng chỉ của họ có hợp lệ hay không, bất kì ai cũng có thể nhanh chóng tìm thấy thông tin.
 
3. Một số bất cập trong bảo lãnh ngân hàng điện tử hiện nay
 
Tuy đã có quy định về bảo lãnh ngân hàng điện tử theo Thông tư số 11/2022/TT-NHNN (có hiệu lực triển khai từ ngày 01/4/2023), nhưng việc áp dụng phương thức này vào thực tế còn hạn chế do những vướng mắc, bất cập như sau:
 
Thứ nhất, quy định cho phép TCTD và khách hàng được lựa chọn thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng qua việc “sử dụng các phương tiện điện tử” (gọi chung là “hoạt động bảo lãnh điện tử”), tuy nhiên, quy định này chưa thực sự rõ ràng về cách xác định hoạt động bảo lãnh điện tử. Với quy định này có thể hiểu rằng, hoạt động bảo lãnh điện tử chỉ đơn thuần là tạo lập quy trình phát hành, giao nhận bảo lãnh ngân hàng bằng phương tiện điện tử (email, ứng dụng ngân hàng điện tử, SWIFT...), hay phải là bảo lãnh ngân hàng mà chữ kí của người đại diện có thẩm quyền thể hiện trên cam kết bảo lãnh phải là chữ kí điện tử, hay phải hiểu đồng thời cả hai hướng như trên mới được xem là bảo lãnh ngân hàng điện tử hợp pháp.
 
Thứ hai, việc xác định các nguyên tắc thiết lập và thực hiện việc bảo lãnh giữa TCTD và các chủ thể khác. Bản chất của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là giao dịch thương mại nên pháp luật quy định nguyên tắc: Ngân hàng bảo lãnh và các chủ thể liên quan phải xác lập và thực hiện giao dịch bảo lãnh thông qua việc kí kết và thực hiện các hợp đồng. Cụ thể, ngân hàng bảo lãnh phải kí hợp đồng dịch vụ bảo lãnh/hợp đồng cấp bảo lãnh với khách hàng được bảo lãnh. Trong hợp đồng phải xác định TCTD là bên cung cấp việc bảo lãnh, còn khách hàng thường là bên được bảo lãnh. TCTD phải cam kết bảo lãnh nếu chủ thể được bảo lãnh thực hiện được nghĩa vụ. Về hình thức, giao dịch bảo lãnh có thể được xác lập qua các phương tiện điện tử bằng chữ kí số, chứng từ số... Việc cần quy định rõ nội dung bảo lãnh trong các chứng thư số giữa TCTD và các bên là cần thiết, góp phần giảm rủi ro và tranh chấp.
 
Thứ ba, giới hạn hạn mức đối với hình thức bảo lãnh điện tử. Hiện nay theo quy định tại Thông tư số 11/2022/TT-NHNN giá trị của mỗi cam kết bảo lãnh phát hành cho khách hàng cá nhân không được vượt quá 4 tỉ đồng và cho khách hàng tổ chức không được vượt quá 45 tỉ đồng nếu không thuộc các trường hợp quy định tại điểm a, b, c, d, e khoản 4 Điều 9 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN. Việc quy định về hạn mức của hoạt động bảo lãnh sẽ làm hạn chế công dụng của biện pháp bảo đảm này.
 
4. Một số kiến nghị, giải pháp 
 
Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng điện tử tại Việt Nam hiện nay đang ở giai đoạn đầu hình thành và triển khai. Nắm bắt được tầm quan trọng của chuyển đổi số và lợi ích mà bảo lãnh ngân hàng điện tử mang lại, để việc áp dụng hoạt động này trong thời gian tới được rộng rãi và ưu việt hơn cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện một số giải pháp sau:
 
Thứ nhất, xem xét bổ sung quy định về khái niệm hoặc giải thích từ ngữ “bảo lãnh ngân hàng điện tử”, các hình thức cam kết bảo lãnh kèm theo như thư bảo lãnh điện tử, hợp đồng bảo lãnh điện tử để các ngân hàng có cơ sở xây dựng quy trình về một sản phẩm mới cải tiến.
 
Thứ hai, việc phát hành bảo lãnh ngân hàng điện tử là một phần quan trọng nhưng chưa phải là toàn bộ hoạt động bảo lãnh điện tử. Bất kì nội dung tiếp theo nào của bảo lãnh ngân hàng điện tử như: Sửa đổi, yêu cầu, hủy/đóng... cũng cần được bổ sung hướng dẫn, quy định cụ thể về cách thức sử dụng các phương tiện điện tử sao cho đồng bộ, nhất quán trong việc triển khai hoạt động này.
 
Thứ ba, quy định về cách thức tra cứu, xác thực bảo lãnh ngân hàng điện tử cụ thể là chữ kí điện tử, tránh tình trạng các tội phạm công nghệ thực hiện giả mạo, tẩy xóa bảo lãnh ngân hàng điện tử một cách tinh vi, khó đối chiếu được. Cam kết bảo lãnh điện tử và chữ kí điện tử cần được tra cứu nhanh chóng qua website, cho kết quả tức thời để khách hàng và cơ quan có liên quan như hải quan, cục thuế, bên mời thầu trên hệ thống đấu thầu điện tử của Trung tâm Đấu thầu qua mạng quốc gia tra cứu nhanh chóng khi cần đối chiếu. Vì vậy, cần xem xét quy định hướng dẫn các cơ quan này thực hiện liên kết và đồng bộ dữ liệu với các ngân hàng để rút gọn thời gian tiếp nhận, đối chiếu, xử lí hồ sơ chứng từ liên quan đến sử dụng bảo lãnh ngân hàng.
 
Thứ tư, ban hành hướng dẫn bổ sung điều kiện cụ thể hơn trong “trường hợp thực hiện nhận biết và xác minh thông tin nhận biết khách hàng qua phương tiện điện tử khi khách hàng lần đầu thiết lập mối quan hệ với TCTD theo khoản 3 Điều 9 Thông tư 11/2022/TT-NHNN. Vì trên thực tế, khi khách hàng thiết lập quan hệ tín dụng lần đầu với ngân hàng, quá trình cấp bảo lãnh sẽ rất mất thời gian vì ngân hàng sẽ thẩm định kĩ khách hàng tương tự như việc vay vốn vì bảo lãnh cũng là một hình thức cấp tín dụng. Các điều kiện kèm theo ngoài điểm a, b khoản 3 này, cần bổ sung thêm chẳng hạn như yêu cầu có cầm cố hợp đồng tiền gửi, kí quỹ...  mức tỉ lệ tối thiểu hoặc 100% giá trị cam kết bảo lãnh để bỏ qua các điều kiện cần nhiều thời gian thẩm định khác, từ đó, tiết giảm thời gian xử lí hồ sơ phát sinh lần đầu cũng như bảo đảm rủi ro cho ngân hàng khi cung ứng hoạt động cấp tín dụng cho khách hàng mới. 
 
Bên cạnh các quy định của pháp luật, nội bộ các TCTD cũng cần nâng cao công nghệ, hệ thống quản lí dữ liệu của mình. Trường hợp tiếp nhận hồ sơ phát hành qua email hay ứng dụng ngân hàng điện tử cũng cần bố trí đường truyền tách biệt với các luồng giao dịch khác, chẳng hạn như chuyển tiền, chi lương... và nối dẫn trực tiếp đến nhân viên nghiệp vụ để xử lí hồ sơ. Kết hợp những giải pháp trên cùng với quy định nội bộ của ngân hàng sẽ giúp hoạt động bảo lãnh điện tử được triển khai, ứng dụng rộng rãi.
 
5. Kết luận
 
Trong quá trình chuyển đổi số của lĩnh vực ngân hàng, việc triển khai ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ với công nghệ hiện đại nhưng vẫn đảm bảo an toàn là nhiệm vụ và hướng đi tương lai của các ngân hàng nói chung và các TCTD nói riêng. Bảo lãnh ngân hàng tuy là hình thức cấp tín dụng quen thuộc nhưng bảo lãnh ngân hàng điện tử vẫn đang là một “khái niệm” mới được ban hành và ứng dụng vào thực tế  vẫn còn những hạn chế. Việc làm rõ khái niệm, phân tích lợi ích và bất cập trong quá trình triển khai áp dụng phương thức này là cơ sở để đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lí về bảo lãnh ngân hàng điện tử. Hi vọng rằng, trong thời gian tới, hoạt động này có thể được ứng dụng rộng rãi và được cải tiến hơn nữa, phù hợp với quá trình chuyển đổi số ngành Ngân hàng theo xu hướng hiện nay.
 
1 Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 1996, trang 37.
2 Khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3 Khoản 2 Điều 335 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4 Khoản 18 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
5 Khoản 1 Điều 9 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN.
6 Khoản 2 Điều 9 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN.
7 Khoản 3 Điều 9 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN.
8 Khoản 4 Điều 9 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN.
9 Khoản 5 Điều 9 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN.
10 Khoản 6 Điều 9 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN.
11 CRMNEXT (2022), “Axis Bank cùng đối tác CRMNEXT giành giải thưởng triển khai CRM tốt nhất từ Asian Banker”, Cision, https://vn.prnasia.com/story/79482-11.shtml, truy cập ngày 24/8/2023.

Tài liệu tham khảo:
 
1. Luật Các TCTD năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
2. Luật Giao dịch điện tử năm 2005.
3. Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30/9/2022 của Thống đốc NHNN.
5. Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 1996, trang 37.
6. CRMNEXT (2022), “Axis Bank cùng đối tác CRMNEXT giành giải thưởng triển khai CRM tốt nhất từ Asian Banker”, Cision, https://vn.prnasia.com/story/79482-11.shtml, truy cập ngày 24/8/2023.
 
 
Phan Minh Tiến (Văn phòng Công chứng Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)
Ngô Thái Cát Tường (Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại ngữ Tin học Thành phố Hồ Chí Minh)
Phạm Thị Mỹ Nay (Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Chi nhánh 7)

Theo: Tạp chí Ngân hàng
    Bài cùng chuyên mục