Nợ xấu "chực chờ" khiến lợi nhuận ngân hàng kém "sáng"

(Banker.vn) Bức tranh lợi nhuận ngành ngân hàng nửa đầu năm 2023 dần lộ diện khi một số ngân hàng công bố báo cáo tài chính quý 2.
Lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2022 dự báo tăng 21%, cổ phiếu nào lên ngôi? Dự báo lợi nhuận ngân hàng tăng 10% Top 10 lợi nhuận ngân hàng quý I/2023: Big4 dẫn đầu nhờ nền tảng vững chắc

Bắt đầu phân hoá mạnh

Tình hình kinh doanh của các nhà băng trong quý 2 nhận được sự quan tâm lớn của thị trường, bao gồm cả nhà đầu tư và giới phân tích. Trước đó đã có nhiều dự báo cho rằng tăng trưởng lợi nhuận quý 2/2023 của các ngân hàng sẽ chậm lại rõ rệt, với áp lực nợ xấu tăng cao do khách hàng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên kết quả kinh doanh cũng sẽ có sự phân hóa.

Tính đến ngày 23/7 đã có 7 ngân hàng công bố kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm, trong đó có 3 ngân hàng công bố báo cáo tài chính.

Theo công bố của Sacombank, tính đến ngày 30/6, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng này đạt 4.755 tỷ đồng, tăng 63,5% so với cùng kỳ, đạt 50,1% kế hoạch Đại hội đồng cổ đông giao. Tổng thu nhập thuần 6 tháng đầu năm đạt hơn 13.500 tỷ, tăng hơn 20% so cùng kỳ năm trước. Chi phí hoạt động được kiểm soát dưới tiến độ theo kế hoạch. Theo đó, tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) đạt 47,8%, giảm 0,6% so cùng kỳ năm trước.

Tổng tài sản của Sacombank đạt hơn 622 ngàn tỷ, tăng hơn 5% so đầu năm, trong đó tài sản có sinh lời tăng 7,5%. Tổng huy động đạt hơn 549 ngàn tỷ, tăng gần 6%; trong đó, huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng hơn 10%.

Cũng nằm trong top các ngân hàng có lãi, MSB cho biết, lợi nhuận hợp nhất trước thuế lũy kế 6 tháng của ngân hàng đạt 3.548 tỷ đồng, tương đương 56% kế hoạch năm.

Tại ngày 30/6/2023, tổng tài sản của MSB đạt hơn 237.800 tỷ đồng, tăng 11,8% so với thời điểm 31/12/2022. Tổng cho vay khách hàng lũy kế 6 tháng qua đạt gần 136.600 tỷ đồng, tăng trưởng đạt 13,2% so với đầu năm, cao hơn mức trung bình toàn ngành, với sự đóng góp lớn từ các phân khúc chiến lược như khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Tiền gửi khách hàng tháng ghi nhận gần 126.300 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cuối năm 2022, trong đó tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi ký quỹ tăng ấn tượt với lần lượt 24% và 30%. Về các chỉ số an toàn hoạt động, tỷ lệ nợ xấu (NPL) riêng lẻ tại 30/6/2023 của MSB được kiểm soát ở mức 1,73%.

Nợ xấu
Lợi nhuận của các ngân hàng đang có sự phân hoá mạnh

Dù mới chỉ mới chỉ cập nhật kết quả kinh doanh sơ bộ, TPBank cho biết tiếp tục ghi nhận lợi nhuận trước thuế khả quan, đạt gần 3,4 nghìn tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm. Nguồn thu chủ yếu của ngân hàng vẫn đến từ nguồn thu nhập lãi thuần, nhưng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi có sự cải thiện tích cực khi tăng lên mức 28% trên tổng thu nhập. Trong đó, thu nhập thuần từ dịch vụ tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ khi đạt 1,5 nghìn tỷ đồng tính đến ngày 30/6, tương đương tăng 26% so với cùng kỳ năm trước.

Cũng theo số liệu từ TPBank, tổng huy động cuối tháng 6 đã đạt trên 302 nghìn tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Tổng tài sản đạt gần 343,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ.

Tại PGBank, lợi nhuận trước thuế quý 2 của nhà băng này đạt 150 tỷ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng đầu năm, lợi nhuận trước thuế đạt 303 tỷ đồng, tăng 24%. Hầu hết các mảng kinh doanh, từ nguồn thu cốt lõi thu nhập lãi, hoạt động dịch vụ đến kinh doanh ngoại hối đều có kết quả lãi khả quan trong 6 tháng đầu năm. Điều này giúp tổng thu nhập hoạt động của PGBank tăng 8%, đạt 756 tỷ đồng trong 2 quý đầu. Chi phí hoạt động tăng 16,9% lên 365 tỷ đồng. Trong khi chi phí dự phòng rủi ro giảm 39% xuống còn 87 tỷ đồng.

LPBank cũng đã công bố báo cáo tài chính, ghi nhận lợi nhuận quý 2/2023 chỉ ở mức 880 tỷ đồng, giảm 51% so với cùng kỳ. Theo đó, lũy kế 6 tháng đầu năm, lợi nhuận ngân hàng đạt 2.446 tỷ, giảm 32%. Nguyên nhân chủ yếu do phần lớn các mảng kinh doanh kém tích cực. Trong đó, thu nhập lãi thuần 6 tháng giảm 11,7% xuống còn 5.224 tỷ đồng. Hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư bị lỗ 4 tỷ (trong khi cùng kỳ lãi đậm 346 tỷ đồng).

Đến ngày 30/6/2023, tổng tài sản LPBank đạt 350.243 tỷ đồng, tăng 6,9% so với đầu năm. Dư nợ cho vay khách hàng tăng 7,6% lên 253.392 tỷ đồng. Tiền gửi khách hàng tăng 3,8% lên 224.126 tỷ.

Một ngân hàng khác là ABBank ghi nhận sụt giảm mạnh hơn khi lợi nhuận sau thuế hợp nhất trong quý 2 chỉ 53 tỷ đồng, tức giảm 94% so với cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng đầu năm, lợi nhuận ngân hàng này đạt 541 tỷ đồng, giảm 59%. Nguyên nhân chủ yếu do chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng từ việc trích lập dự phòng theo Thông tư 11.

Trong quý 2, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của ABBank là 697 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái chỉ 173 tỷ đồng. Gộp 6 tháng, chi phí dự phòng 814 tỷ đồng, tăng gần gấp 4 năm trước. Tuy nhiên theo lãnh đạo ABBank, việc tăng nguồn dự phòng rủi ro sẽ giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong việc xử lý rủi ro trong thời gian tới.

Tính đến hết ngày 30/06/2023, Ngân hàng TMCP An Bình(ABBANK) ghi nhận tăng trưởng nhẹ quy mô vốn và tổng tài sản, đạt 154.344 tỷ đồng, tăng 18% so với cuối năm 2022.

Huy động từ khách hàng tại ABBANK sau 6 tháng đạt 95.754 tỷđồng, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2022. Mức tăng trưởng đếnchủ yếu từ phân khúc Khách hàng cá nhân (KHCN), giúp tỷ trọng huy động bán lẻ tăng từ 60% lên 70%. Số lượng KHCN cũng được mở rộng đáng kể, tăng 56% so với cùng kỳ 2022. Theo đó, giá trị giao dịch mỗi tháng của KHCN có sự tăng trưởng bứt phá, đạt mức gần 58.000 tỷ đồng trong tháng 6/2023, tăng trưởng gần 43% so với giá trị giao dịch bình quân trong 3 tháng đầu năm. Số lượng giao dịch của KHCN cũng có sự tăngtrưởng tương ứng, đặc biệt các giao dịch trên kênh số tăng trưởng tới 33% so với bình quân 2022. Việc chuyển dịch lênkênh số diễn ra mạnh mẽ tại ABBANK là thành quả của chiếnlược “lấy khách hàng làm trọng tâm”, tập trung các giải phápthiết kế lại trải nghiệm hướng tới khách hàng.

Trong bối cảnh tín dụng toàn ngành tăng trưởng chậm trong nửa đầu năm 2023, dư nợ tín dụng của ngân hàng đạt 90.374 tỷ đồng, tăng 6% so với cùng kỳ năm2022. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng cũng tăng 23% so với cùng kỳ năm trước, đạt 715 tỷ đồng.

Hệ số an toàn vốn (CAR) của ABBANK cuối quý II đạt mức11,37%, thể hiện khung vốn vững chắc với mức đệm vốn tốt so với yêu cầu tối thiểu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ở mức8%, đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ, giải quyết cácrủi ro tín dụng và hoạt động. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của ABBANK được kiểm soát ở mức 2,86%, đảm bảo tuân thủ quy định của NHNN. Mặc dù nợ xấu của ABBANK có xu hướng tăng theo diễn biến chung của toàn ngành, nhưng các khoản nợ xấu này đều có tài sản đảm bảo.

Nợ xấu
Một trong những nguyên nhân chính của sự giảm tốc về lợi nhuận của các ngân hàng đến từ hoạt động xử lý nợ xấu để thu hồi vốn

Lý do nào khiến lợi nhuận của các ngân hàng suy giảm?

Theo Công ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCBS), yếu tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh toàn ngành là sự sụt giảm thu nhập ngoài lãi ở hầu hết các hoạt động chính so với cùng kỳ. Các hoạt động dịch vụ, đầu tư chứng khoán, thu hồi nợ xấu ngoại bảng đều gặp khó khăn.

Trong đó, thu nhập từ bán chéo bảo hiểm (bancassurance) vốn chiếm khoảng 30% thu nhập dịch vụ, bị ảnh hưởng do việc các cơ quan quản lý đẩy mạnh hoạt động thanh kiểm tra và thu nhập của người dân giảm sút.

"Sau 4 tháng đầu năm, doanh thu khai thác mới qua kênh bancassurance toàn thị trường ghi nhận giảm 38% so với cùng kỳ, lãi từ phí bảo hiểm cả năm theo đó dự báo giảm 10%-15%", chuyên gia VCBS nhận định.

Các chuyên gia tài chính ngân hàng cũng dự báo tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) tiếp tục thu hẹp trong quý 2 khi nguồn vốn huy động giá cao vẫn chưa được hấp thụ hết đồng thời nguồn vốn giả rẻ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) giảm mạnh. Vì vậy, các chuyên gia cho rằng, áp lực thu hẹp NIM sẽ hạ thấp, tuy nhiên mức độ cải thiện phân hóa giữa các nhóm ngân hàng khác nhau.

Trong đó, nhóm 4 ngân hàng thương mại Nhà nước NIM duy trì mức thấp do áp lực giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế với các gói vay ưu đãi quy mô lớn từ đầu 2023. Tuy nhiên, nhóm ngân hàng tư nhân có tập khách hàng cá nhân thường xuyên dồi dào sẽ có NIM tăng nhanh nhờ tỷ lệ CASA cao và tín dụng bán lẻ hồi phục khi mặt bằng lãi suất giảm dần.

Theo các chuyên gia, việc Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất sẽ giúp giảm chi phí huy động vốn cho các ngân hàng nhưng mục đích chính của nhà điều hành là tạo điều kiện để giảm lãi suất cho vay. Vì vậy, NIM của các ngân hàng sẽ không hưởng lợi nhiều từ quyết định này.

Cụ thể, sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện 4 lần giảm lãi suất điều hành, lãi suất huy động giảm nhanh và lãi suất cho vay ghi nhận giảm khoảng 1% tại các khoản vay phát sinh mới, tuy nhiên thời điểm giảm của các khoản vay hiện hữu có độ trễ 3-6 tháng so với lãi suất huy động.

Chuyên gia của VCBS cũng chỉ ra một trong những nguyên nhân chính của sự giảm tốc này đến từ hoạt động xử lý nợ xấu để thu hồi vốn của các ngân hàng đang tiếp tục gặp khó khăn do thị trường bất động sản đóng băng. Trong khi đó, bất động sản lại là tài sản bảo đảm chính cho phần lớn các khoản vay.

Ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng cho biết thời gian qua, việc thu hồi nợ gặp nhiều vướng mắc, một số khách hàng có nợ xấu bất hợp tác, khó thương lượng. Cá biệt có hiện tượng lập nhóm bùng nợ tràn lan trên mạng xã hội kêu gọi không trả nợ nhất là nhóm khách hàng vay tiêu dùng.

Các chuyên gia ngân hàng cũng đánh giá, trên thực tế con số nợ xấu sẽ tăng hơn trong năm 2024 bởi một lượng lớn nợ xấu đã được “ẩn” nhờ Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu nợ.

Thông tư số 02 được ban hành để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng. Tuy nhiên, để giảm gánh nặng nợ xấu bị đẩy về tương lai, Thông tư yêu cầu các tổ chức tín dụng phải đánh giá, phân loại cũng như trích lập dự phòng theo nhóm nợ thực tế của khách hàng. Theo quy định tại Thông tư, các tổ chức phải trích lập dự phòng tối thiểu 50% trong năm 2023 và 100% trong năm 2024.

Ngân Thương

Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục