Độc lập, tự chủ là năng lực quốc gia trong giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về đối nội, đối ngoại, nhất là lựa chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong đó, độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị và tăng cường độc lập, tự chủ quốc gia. Không thể có độc lập, tự chủ về chính trị trong khi lệ thuộc về kinh tế.
Ở Việt Nam, khu vực kinh tế nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn kết và phát huy sức mạnh nội lực kết hợp với ngoại lực, phù hợp trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (Văn kiện Đại hội XIII) đã nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn và tăng cường xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế.
1. Nền kinh tế độc lập, tự chủ từ tinh thần Văn kiện Đại hội XIII
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”1.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập nhằm tạo dựng sức mạnh dân tộc; trong đó, nội lực là quyết định; tranh thủ yếu tố ngoại lực và thời đại có vai trò quan trọng.
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế chủ trương: Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) xác định: “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế... kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”2. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với chủ trương: Tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.
Theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII, nền kinh tế độc lập, tự chủ Việt Nam có những điểm nhấn đặc trưng của kinh tế thị trường mang tính thời đại: Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các chủ thể kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường; nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế thích ứng nhanh và hiệu quả với những biến động trên thế giới
và hướng tới yêu cầu phát triển bền vững
Lần đầu tiên Đảng nêu rõ yêu cầu: Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn bó mật thiết với giữ vững các cân đối lớn đi đôi với bảo đảm an ninh kinh tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ doanh nghiệp và thị trường trong nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia; tăng cường đào tạo nhân lực có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Điểm mới trong định hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII là nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất, kinh doanh và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị cả ở cấp quốc gia và doanh nghiệp; tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.
Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu “bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Điều đó là cần thiết, tạo sự linh hoạt và vận dụng hiệu quả nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn của Đảng trước mọi biến động nhanh, khó lường của thế giới. Đây cũng là thông điệp khẳng định sự nhất quán trong nhận thức chính trị nói chung của Đảng về định hướng nội dung và mục tiêu con đường đổi mới, hội nhập của Việt Nam trong thời kỳ mới, phù hợp với thực tiễn trong nước và xu hướng chung trên thế giới.
Văn kiện Đại hội XIII cũng phân định rõ hơn vai trò, nội dung, yêu cầu và các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước trong phát triển và củng cố các quan hệ gắn kết giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, theo đó:
Trong nền kinh tế độc lập, tự chủ Việt Nam, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, với mục tiêu cao nhất là vì một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục những hạn chế của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cần nhấn mạnh rằng, các nguyên tắc và kết quả triển khai là cần thiết để Việt Nam được các thành viên WTO và các đối tác thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ các FTA thế hệ mới.
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất, kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển bền vững; tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Văn kiện Đại hội XIII cũng làm sâu sắc hơn nhận thức về chức năng quản lý kinh tế của nhà nước: Nhà nước có vai trò chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; tăng cường đào tạo cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; nâng cao năng lực dự báo và ngăn chặn, trung hòa các tác động mặt trái của kinh tế thị trường (như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh thiếu lành mạnh, phân hóa giàu nghèo và coi nhẹ các vấn đề y tế, môi trường, xã hội…); đồng thời, là nhạc trưởng giữ nhịp và đảm bảo ổn kinh tế vĩ mô, bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh, tuân thủ các cam kết, quy luật và quy trình kinh tế trong hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia và tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ doanh nghiệp và thị trường trong nước...
Văn kiện Đại hội XIII còn lần đầu tiên mở rộng, nhấn mạnh và làm rõ hơn mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước, thị trường và xã hội, thay vì chỉ có quan hệ nhà nước với thị trường trong văn kiện các kỳ Đại hội trước đây. Theo đó, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
Về tổng thể, có thể thấy: Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là chủ trương lớn và nhất quán của Đảng, Nhà nước, là đòi hỏi khách quan, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, động lực thúc đẩy đất nước vươn mình, ngày càng củng cố cơ đồ, tiềm lực kinh tế, sự độc lập, tự chủ của quốc gia, vị thế và uy tín quốc tế, hướng tới khát vọng hùng cường, trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là nền kinh tế biệt lập, khép kín, tự cung, tự cấp, thiếu gắn kết với các nền kinh tế trên thế giới, mà là nền kinh tế có sự độc lập, tự chủ về đường lối phát triển phù hợp với xu hướng thế giới và thực tiễn lịch sử; có các nguồn nội lực hùng hậu, năng lực cạnh tranh cao, cơ cấu kinh tế hợp lý, thích ứng nhanh và hiệu quả với những biến động của tình hình quốc tế và hướng tới yêu cầu phát triển bền vững; trong bất cứ tình huống nào cũng bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng, tài chính - tiền tệ, môi trường quốc gia, kiểm soát được các rủi ro thị trường, giữ vững sự ổn định vĩ mô và các hoạt động bình thường về kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
Đặc biệt, điều kiện, thước đo và động lực phát triển của nền kinh tế độc lập, tự chủ đó là sự đồng bộ và chất lượng cao về pháp luật kinh tế, hệ thống thị trường và cơ sở hạ tầng, về khoa học công nghệ, bộ máy lãnh đạo quản lý và nguồn nhân lực.
2. Khu vực kinh tế nhà nước trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
Kinh tế nhà nước là khái niệm mở, nội hàm rộng, bao quát toàn bộ cơ cở vật chất - kinh tế thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện và thống nhất quản lý dưới nhiều dạng như: Các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển đổi hình thức theo Luật Doanh nghiệp và phần vốn, tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp khác đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Các quỹ và tài sản quốc gia khác (tài chính và phi tài chính) thuộc sở hữu nhà nước và các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, các đơn vị sự nghiệp công lập và bán công về nghiên cứu khoa học, giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao…). Các đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội nghề nghiệp; toàn bộ đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý…
Với nội hàm và quy mô đó, kinh tế nhà nước đã, đang và sẽ tiếp tục thực sự đóng vai trò chủ đạo (theo nghĩa vật chất - tài chính) trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội quốc gia, mà không có bất cứ khu vực kinh tế nào khác đủ lớn mạnh để có thể cạnh tranh và thay thế.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng và nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước; góp phần dẫn dắt, tạo động lực cho khu vực ngoài nhà nước phát triển. Theo báo cáo của Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương, khối doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ tổng tài sản là 9,93 triệu tỷ đồng, trong đó tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước là 2,81 triệu tỷ đồng và các ngân hàng là 7,12 triệu tỷ đồng. Các doanh nghiệp trong Khối doanh nghiệp Trung ương tính đến tháng 10/2022 gồm: 09 tập đoàn kinh tế, 20 tổng công ty, 06 ngân hàng, 01 tổ chức tài chính nhà nước với tổng số 930 doanh nghiệp trực thuộc.
Cần thấy rằng, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cũng có sự điều chỉnh linh hoạt thích hợp với cơ chế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu, rộng, đầy đủ và nghiêm túc của Việt Nam. Theo đó, khu vực kinh tế nhà nước và nhất là các doanh nghiệp nhà nước sẽ ngày càng giảm dần vai trò chủ đạo theo nghĩa truyền thống, từ thống trị tuyệt đối về lượng, lĩnh vực kinh doanh, sang chỉ chủ đạo trong lĩnh vực mà tư nhân không thể, không muốn đảm nhiệm và nhà nước cần độc quyền. Đồng thời, phương thức chủ đạo cũng mềm và tỷ lệ cũng linh hoạt hơn, chủ yếu tham gia dưới hình thức cổ phần và giảm tối đa việc nhà nước tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh tế thông qua các doanh nghiệp nhà nước, chuyển một số nhiệm vụ mà các bộ, ngành, cơ quan nhà nước không cần thiết phải thực hiện cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đảm nhận theo tinh thần Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về tiếp tục cải cách bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm dần vai trò của mình trong nền kinh tế vì lợi nhuận, ngày càng thu hẹp sự chủ đạo từ phạm vi toàn bộ nền kinh tế chỉ còn vào một số lĩnh vực, ngành kinh tế chủ chốt. Đồng thời, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong thời gian tới cũng cần được nhấn mạnh vào các nội dung và mục tiêu: Nắm giữ các tài sản, tổ chức các hoạt động độc quyền thuộc lĩnh vực đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động giữ vững các cân đối cơ cấu lớn, liên ngành, cấp quốc gia và ở địa phương, địa bàn cần thiết; chủ động và trực tiếp đảm nhận đầu tư vào những dự án, địa bàn không hấp dẫn hoặc cần thiết để định hướng, mở rộng đầu tư phát triển từ các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Trên thực tế, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân sẽ ngày càng linh hoạt và dịch chuyển theo hướng thu hẹp dần cả về quy mô, tỷ trọng và phạm vi hoạt động; từ chiếm hầu như địa vị thống trị trong toàn bộ nền kinh tế trong nền kinh tế đơn thành phần, sang giảm dần tỷ trọng trong kinh tế đa thành phần và từ có mặt ở tất cả các ngành, nghề, lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, sẽ ngày thu hẹp chủ đạo vào một số lĩnh vực, ngành kinh tế chủ chốt.
Hơn nữa, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong thời gian tới cần được nhấn mạnh vào các nội dung và mục tiêu vì lợi ích quốc gia và hỗ trợ tối đa kinh tế tư nhân phát triển; nắm giữ các tài sản, tổ chức các hoạt động độc quyền thuộc lĩnh vực đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động giữ vững các cân đối cơ cấu lớn, liên ngành, cấp quốc gia và ở địa phương, địa bàn cần thiết để định hướng, mở rộng đầu tư phát triển từ các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên cơ sở tách bạch nhiệm vụ công ích với nhiệm vụ kinh doanh theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Dù có xu hướng ngày càng giảm thiểu, thu hẹp, song quá trình tái cơ cấu và đổi mới quản lý kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh mới không phải là làm suy yếu và dần xóa bỏ triệt để các doanh nghiệp và khu vực kinh tế này, mà là làm cho chúng ngày càng hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn và đóng góp nhiều hơn cho kinh tế quốc gia theo nguyên tắc quản lý kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Theo thống kê chung trên thế giới, ở các nước, Chính phủ chỉ giữ 20% vốn tại doanh nghiệp nhà nước và khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm khoảng 5 - 20% GDP.
Thực tế cho thấy, động lực và triển vọng thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục phụ thuộc vào những nhận thức và hành động thực tiễn mới, đầy đủ, sâu sắc hơn về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam; sự phối hợp hài hòa bàn tay nhà nước và bàn tay thị trường trong một mô hình nhà nước kiểu mới; coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính hai mặt của các giải pháp chính sách đa dạng hóa và phối hợp các nguồn lực trong nước và quốc tế; khả năng tăng cường dự báo, thông tin, bảo vệ người tiêu dùng và giữ vững lòng tin trên thị trường, củng cố uy tín quốc gia và niềm tin chiến lược quốc tế vào các đột phá thể chế Việt Nam có tính hội nhập cao và bền vững hơn, từng bước định hình một tầm nhìn mới, một thực tiễn mới và mở ra triển vọng phát triển mới trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ chuyển mình hội nhập cùng thế giới.
Về giải pháp thực hiện để đạt các mục tiêu này, nhiều điểm mới tích cực đáng ghi nhận trong nhận thức của Đảng như: Nhấn mạnh cả hai yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Đặc biệt, lần đầu tiên Đảng nêu rõ yêu cầu: Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ doanh nghiệp và thị trường trong nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; tăng cường đào tạo cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Những nhận thức mới trên đây phản ánh sự phát triển nội tại tư duy kinh tế của Đảng trong quá trình hội nhập quốc tế, vừa là những kết luận mới rút ra từ sự phân tích các xu hướng và bối cảnh bình thường mới trong phát triển kinh tế thế giới; theo đó, thế giới vừa duy trì sự tiếp tục các xu thế lớn về hòa bình, hợp tác và phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đa cực, đa trung tâm… vừa đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức mới cho mỗi quốc gia liên quan đến gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn và chủ nghĩa thực dụng; gia tăng xung đột cục bộ và các rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế; sự suy giảm vai trò luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu trong quan hệ quốc tế; những điều chỉnh chiến lược và cơ cấu lớn thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hậu dịch Covid-19 cả về chiến lược phát triển, các chuỗi cung ứng, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài và tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo.
Quá trình Đảng ta không ngừng hoàn thiện, củng cố nhận thức toàn diện, đầy đủ, sâu sắc và tổ chức xây dựng hiệu quả mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta là biểu hiện và thước đo sự thành công bản lĩnh, trí tuệ về đổi mới và cách mạng của Đảng. Đồng thời, đó cũng là quá trình tạo lập và hiện thực hóa các mục tiêu, động lực và cơ chế để gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và để người dân được hưởng thụ ngày càng nhiều hơn thành quả của công cuộc đổi mới; để giữ vững được ổn định chính trị và kinh tế, củng cố đồng thuận và đoàn kết xã hội, không ngừng cải thiện các quan hệ và vị thế quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam phát triển nhanh, bền vững hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện hơn…
Với tinh thần đó, trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thời gian tới cần duy trì sự ổn định và phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường, hội nhập quốc tế; tiếp tục giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước; đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể chế, nhất là về hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; thúc đẩy sự chuyển biến mạnh mẽ hơn về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới động lực tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, tăng tính cạnh tranh chất lượng của nền kinh tế; tập trung tạo mọi điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, phát triển cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam gắn kết và lớn mạnh, trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác, nhất là khi thị trường hay đối tác đó có sự biến động; thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước từng giai đoạn; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tăng cường đổi mới sáng tạo, phát triển và từng bước làm chủ khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, góp phần tích cực xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.