Năm 2020: Điều hành chính sách tiền tệ đã góp phần phục hồi kinh tế trước diễn biến phức tạp của dịch COVID-19

(Banker.vn) Bám sát chủ trương của Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường trong và ngoài nước, trong năm 2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ và ngoại hối, hỗ trợ phục hồi kinh tế trước diễn biến phức tạp của dịch COVID-19.

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đã trao đổi với phóng viên nhân dịp Xuân Tân Sửu 2021.

Phóng viên: Thưa ông, trong năm 2020, những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân trước ảnh hưởng của dịch COVID-19 mà ngành Ngân hàng đã triển khai được Đảng, Quốc hội, dư luận trong nước và quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Nhân dịp chào mừng Xuân Tân Sửu, xin ông cho biết những kết quả nổi bật của ngành trong năm 2020 cũng như những nỗ lực đã mang lại những kết quả đó?

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú

Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Năm 2020 là một năm đi vào lịch sử thế giới với những thách thức chưa từng có. Dịch bệnh COVID-19 đã và đang lan rộng trên thế giới là một cú sốc lớn đối với hoạt động xã hội, kinh tế của toàn thế giới, gây ra nhiều khó khăn và hệ lụy cho các doanh nghiệp và các quốc gia. Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã chủ động triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về tín dụng nhằm hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, cụ thể:

Thứ nhất, yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) rà soát, đánh giá mức độ ảnh hưởng của dịch đối với khách hàng vay vốn, xây dựng chương trình, kịch bản hành động của ngân hàng bám sát với thực tế để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng.

Thứ hai, ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 13/3/2020, tạo cơ sở pháp lý để các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, giúp người dân và doanh nghiệp giảm áp lực trả nợ để tập trung vốn cho sản xuất kinh doanh; ban hành Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020 chỉ đạo các TCTD tăng cường triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch.

Thứ ba, quyết liệt chỉ đạo TCTD tập trung mọi nguồn lực, đẩy mạnh cải cách quy trình thủ tục nội bộ, rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ vay vốn để nâng cao khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng.

Thứ tư, kịp thời điều chỉnh tăng mức tăng trưởng tín dụng của các TCTD hoạt động hiệu quả, có điều kiện mở rộng tín dụng lành mạnh vào các lĩnh vực phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.

Thứ năm, ban hành Thông tư và các văn bản hướng dẫn thực hiện cho vay tái cấp vốn với lãi suất 0%, số tiền 16.000 tỷ đồng từ NHNN để Ngân hàng Chính xách xã hội (NHCSXH) cho người sử dụng lao động gặp khó khăn về tài chính vay trả lương cho người lao động bị ngừng việc do ảnh hưởng của dịch với lãi suất 0% theo đúng tinh thần Nghị quyết 42 của Chính phủ và Quyết định 15 của Thủ tướng Chính phủ.

Thứ sáu, Ban lãnh đạo NHNN đã phối hợp với Lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố tổ chức gần 20 Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên tất cả 6 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước để lắng nghe ý kiến phản ánh của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiếp cận chính sách của NHNN, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất từ dịch bệnh COVID-19, các lĩnh vực ưu tiên, các đối tượng chính sách của Nhà nước.

Sự vào cuộc sớm, chủ động và quyết liệt của ngành Ngân hàng đã đạt được những kết quả tích cực; tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu phục hồi từ quý II/2020 khi cầu tín dụng bắt đầu tăng, đến ngày 23/12/2020, tín dụng tăng 10,54% so với cuối năm 2019, tăng 11,93% so cùng kỳ 2019. Tín dụng tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên (Đến ngày 31/12/2020, tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu ước tăng 10,4%; tín dụng lĩnh vực nông nghiệp nông thôn tăng khoảng 9,8%; tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11%), nhu cầu vốn cho các dự án trọng điểm được đáp ứng kịp thời.

Đặc biệt, tất cả các TCTD (kể cả công ty tài chính, ngân hàng nước ngoài) đều vào cuộc mạnh mẽ, sử dụng nguồn nội lực tài chính của mình thông qua việc tiết giảm chi phí, cắt giảm lương, giảm lợi nhuận, không chia cổ tức... để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng. Đến nay, toàn Ngành đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khoảng 270 nghìn khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 với dư nợ gần 355 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho gần 590 nghìn khách hàng với dư nợ trên 1 triệu tỷ đồng, đặc biệt các TCTD đã cho vay mới lãi suất ưu đãi (thấp hơn phổ biến từ 0,5 - 2,5% so với trước dịch) với doanh số lũy kế từ ngày 23/1 đến nay đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng cho hơn 390 nghìn khách hàng.

Đối với cho vay người sử dụng lao động để trả lương ngừng việc cho người lao động, NHCSXH đã thực hiện giải ngân với tổng dư nợ là 20,72 tỷ đồng cho 137 người sử dụng lao động, số lao động được hỗ trợ là 5.200 người (Đến hết năm 2020, NHCSXH đã thực hiện giải ngân 31,6 tỷ đồng cho 207 doanh nghiệp để trả lương cho 8.529 người lao động bị ngừng việc).

Các giải pháp NHNN và ngành Ngân hàng triển khai trong thời gian qua, đặc biệt là giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ được thực hiện bằng chính nguồn lực của các TCTD từ việc tiết kiệm triệt để chi phí hoạt động, giảm lợi nhuận kinh doanh, trên tinh thần chia sẻ khó khăn và đồng hành cùng với khách hàng vay vốn, đã phát huy tác dụng giúp giảm áp lực cho doanh nghiệp trong trả nợ vay ngân hàng và tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp tục vay mới khôi phục và ổn định sản xuất, kinh doanh. 

Phóng viên: Thưa ông, nhìn rộng ra cả trong giai đoạn 2015 – 2020, ngành Ngân hàng đã hoàn thành xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ được giao; khẳng định được vai trò là huyết mạch của nền kinh tế. Xin ông cho biết những kết quả nổi bật của ngành cũng như những nỗ lực đã mang lại những kết quả trong giai đoạn này?

Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Giai đoạn 2015-2020, nền kinh tế Việt Nam có thế và lực thuận lợi nhờ kế thừa thành tựu 30 năm đổi mới khi những nỗ lực cải cách cơ cấu kinh tế bắt đầu đơm hoa, kết trái. Tuy nhiên, khó khăn cũng chất chồng do nhiều nguyên nhân như xung đột địa chính trị, xung đột thương mại căng thẳng giữa các nước lớn, diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, thiên tai, biến đổi khí hậu... Với sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của người dân, doanh nghiệp, kinh tế trong nước đã đạt được những thành tựu quan trọng: nền tảng vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; xuất siêu 5 năm liên tiếp trong bối cảnh thương mại quốc tế giảm mạnh; duy trì tốc độ tăng trưởng cao giai đoạn 2016-2019 (bình quân 6,8%/năm) và đặc biệt là năm 2020 đạt gần 3% (là một trong số ít quốc gia có tốc độ tăng trưởng dương và gần như cao nhất trong khu vực); tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển biến tích cực; niềm tin vào VND được củng cố; dự trữ ngoại hối tăng lên mức kỷ lục; hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện, năng lực cạnh tranh quốc gia được nâng lên...

Những dấu ấn kinh tế nổi bật đó có sự đóng góp hết sức tích cực, quan trọng của hệ thống ngân hàng - mạch máu của nền kinh tế, thể hiện trên 4 lĩnh vực chính sau đây:

Thứ nhất, hiệu lực, hiệu quả truyền dẫn của CSTT ngày càng nâng cao. NHNN đã điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát theo mục tiêu và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững; Điều hành tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, kiểm soát tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát (Chất lượng tín dụng được cải thiện rõ rệt qua các năm: Tốc độ tăng tín dụng giảm từ mức 18,25% năm 2016 xuống 13,65% năm 2019, nhưng tăng trưởng kinh tế tăng từ mức 6,21% lên 7,02% trong cùng giai đoạn); kiên định điều hành giảm lãi suất trên nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cân bằng lợi ích của người đi vay và người gửi tiền (Mặt bằng lãi suất hiện nay giảm mạnh, chỉ bằng 40% so với mức lãi suất nửa cuối năm 2011. Số liệu thống kê của IMF cho thấy, so với các nước láng giềng ASEAN có trình độ phát triển tương đồng, lãi suất cho vay bình quân của Việt Nam ở mức trung bình); ổn định tỷ giá, giữ vững giá trị đồng Việt Nam; thị trường tiền tệ, ngoại hối và thị trường vàng ổn định, thông suốt.

Thứ hai, tái cơ cấu hệ thống TCTD và xử lý nợ xấu có bước đột phá cơ bản trên cơ sở phát hiện và hoàn thiện những “nút thắt” trong khung pháp lý hiện hành. Đến cuối năm 2020, sự ổn định, an toàn của hệ thống TCTD được giữ vững, hầu hết TCTD đạt tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của pháp luật (khoảng 11,65%); năng lực tài chính các TCTD được củng cố; chất lượng tín dụng được cải thiện, tỷ lệ nợ xấu tiếp tục được duy trì dưới 3%; quy mô hệ thống TCTD tiếp tục tăng; năng lực quản trị, điều hành của TCTD từng bước được nâng cao, tiệm cận với thông lệ quốc tế.

Thứ ba, hệ thống thanh toán được kiểm soát và vận hành an toàn, việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt có nhiều tiến bộ vượt bậc. NHNN đã xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán. Các TCTD đã nghiên cứu, ứng dụng nhiều công nghệ mới, hiện đại như thanh toán trên thiết bị di động, áp dụng xác thực vân tay, sinh trắc, sử dụng mã phản hồi nhanh... Đồng thời, thanh toán ngân hàng được đẩy mạnh đối với các dịch vụ công, góp phần không nhỏ trong việc hạn chế sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế.

Thứ tư, công tác cải cách hành chính (CCHC) giai đoạn 2016-2020 tiếp tục được NHNN đặc biệt quan tâm chỉ đạo triển khai quyết liệt, nhờ đó trong 5 năm liên tiếp, NHNN đã được Ban chỉ đạo CCHC của Chính phủ xếp thứ nhất về chỉ số CCHC PAR-Index, cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Phóng viên: Bước vào năm mới mỗi cơ quan, đơn vị đều đưa ra những định hướng, chiến lược và quyết tâm mới, ngành Ngân hàng sẽ bước vào năm mới với tâm thế thế nào? Đâu là những giải pháp chiến lược đột phá của ngành năm 2021 và giai đoạn 2021-2025, thưa ông?

Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 - một giai đoạn phát triển mới của đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước tiếp tục có những thách thức, biến động khó lường, ngành Ngân hàng đã chuẩn bị tâm thế sẵn sàng, chủ động vượt qua mọi khó khăn với tinh thần trách nhiệm cao để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng, Quốc hội, Chính phủ giao phó, tiếp tục đảm bảo vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững.

Đồng thời, bước sang giai đoạn 2021-2025, ngành Ngân hàng tiếp tục kiên định mục tiêu mà Chiến lược phát triển ngành đã đặt ra, theo hướng hiện đại hóa NHNN và phát triển hệ thống các TCTD hoạt động minh bạch, cạnh tranh, an toàn, hiệu quả bền vững, phấn đấu đạt trình độ của các nước đứng đầu trong khu vực. Theo đó, toàn ngành xác định sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thuận lợi, rõ ràng cho công tác điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trường, yêu cầu phát triển kinh tế và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập cũng như xu hướng phát triển của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0).

Hai là, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy hoạt động của NHNN theo hướng tinh gọn, hiệu lực hiệu quả, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; thực hiện quyết liệt công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hệ số tín nhiệm và niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào cơ chế, chính sách và hoạt động của ngành Ngân hàng.

Ba là, tiếp tục bám sát diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế để sử dụng linh hoạt các công cụ nhằm đạt được mục tiêu của CSTT là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả huy động và phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều hành chính sách tín dụng theo hướng tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; Lồng ghép các nội dung về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh trong các chương trình, dự án tín dụng.

Bốn là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, các đối tượng là TCTD còn yếu kém, đảm bảo giữ vững an toàn hệ thống. Tăng cường ứng dụng công nghệ và chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác thanh tra, giám sát ngân hàng.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu để xử lý quyết liệt những tồn tại, yếu kém của hệ thống, trọng tâm là các TCTD yếu kém; đồng thời, nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh, cả về năng lực tài chính và quản trị hướng tới chuẩn mực, thông lệ quốc tế; tăng cường tính minh bạch và tuân thủ, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của các TCTD.

Sáu là, tập trung xây dựng Đề án phát triển TTKDTM giai đoạn 2021-2025 phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của hoạt động ngân hàng số trong thời kỳ CMCN 4.0; Tiếp tục xây dựng hạ tầng thanh toán quốc gia nhằm đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng trong nền kinh tế số; Tăng cường quản lý, giám sát đối với các hệ thống thanh toán, đảm bảo an ninh, an toàn, hiệu quả và thông suốt. Triển khai các giải pháp thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, ứng dụng công nghệ, phương thức thanh toán hiện đại; đẩy mạnh triển khai các mô hình thanh toán tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Bảy là, triển khai có hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 để cuối năm 2025 đạt được các mục tiêu của Chiến lược này đề ra cho giai đoạn 2020-2025.

Tám là, tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trên trường quốc tế; đổi mới và tăng cường công tác truyền thông theo hướng chủ động, chuyên nghiệp, góp phần minh bạch hóa thông tin, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân về tài chính, tiền tệ và hoạt động ngân hàng; triển khai các hoạt động khác của ngành Ngân hàng đã được Chiến lược phát triển ngành định hướng, góp phần tạo hiệu ứng tổng thể cho kết quả hoạt động chung của toàn ngành.

Với tinh thần chủ động, tích cực, đồng bộ triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, chúng tôi tin tưởng năm 2021 nói riêng và giai đoạn 2021-2025 nói chung, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Phó Thống đốc!

Ngô Hải

Theo Tạp chí Thị trường Tài chính - Tiền tệ (link gốc)

Theo: