Lãi suất - điểm tựa mong manh
Việc điều hành lãi suất những tháng cuối năm đang trở thành “cán cân” nhạy cảm giữa thúc đẩy tăng trưởng và giữ vững ổn định vĩ mô. Khi nền kinh tế đặt mục tiêu tăng trưởng cao, tín dụng cần mở rộng, nhưng áp lực lạm phát và thanh khoản lại khiến chính sách tiền tệ phải tính toán từng bước thận trọng. Câu hỏi lớn đặt ra là liệu mục tiêu kép vừa tăng trưởng, vừa ổn định có thể đạt được nhờ nhịp điều hành lãi suất?
Theo TS. Châu Đình Linh, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, lãi suất không chỉ là công cụ điều hành trực tiếp mà còn là kênh truyền dẫn chính của chính sách tiền tệ. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước từ đầu năm đã nhất quán quan điểm giữ ổn định mặt bằng lãi suất ở mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng, đồng thời kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá.
Trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, trong khi các ngân hàng thương mại chủ động tiết giảm chi phí, đẩy mạnh chuyển đổi số, tạo điều kiện hạ lãi vay. Nhiều gói tín dụng ưu đãi đã được tung ra, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như: sản xuất, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao, năng lượng xanh, chuyển đổi số, nhà ở xã hội…

7 tháng đầu năm 2025, lãi suất các khoản vay mới giảm 0,4%/năm so với cuối năm trước. Ảnh: Duy Minh
Nói về thời điểm điều chỉnh tăng, giảm lãi suất, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, khẳng định, điều hành lãi suất luôn gắn chặt với diễn biến lạm phát. Khi lạm phát tăng, lãi suất buộc phải tăng để kiểm soát; khi lạm phát ổn định, lãi suất được điều chỉnh giảm nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Từ năm 2023, Ngân hàng Nhà nước liên tục giảm lãi suất điều hành và giữ ổn định suốt những tháng đầu năm 2024, qua đó tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp, tiếp sức cho doanh nghiệp và người dân.
Kết quả rõ rệt, lãi suất cho vay bình quân năm 2023 giảm 1,1%/năm, năm 2024 tiếp tục giảm thêm 1,24%/năm; bảy tháng đầu năm 2025, lãi suất các khoản vay mới giảm 0,4%/năm so với cuối năm trước. “Việc giảm lãi suất đã tạo dư địa cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, khuyến khích đầu tư, đồng thời giảm áp lực chi phí vốn cho hộ kinh doanh và cá nhân”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú khẳng định.
Đáng chú ý, bối cảnh quốc tế cũng đang “ủng hộ” xu hướng ổn định. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã phát tín hiệu giảm lãi suất, qua đó giảm sức ép lên tỷ giá, giúp chính sách tiền tệ trong nước linh hoạt hơn. TS. Châu Đình Linh dự báo, từ nay đến cuối năm, mặt bằng lãi suất trong nước cơ bản ổn định, thậm chí có thể giảm nhẹ ở một số lĩnh vực ưu tiên. Tuy nhiên, sự ổn định này chỉ bền vững nếu dòng vốn được dẫn dắt đúng hướng, tránh dồn vào các tài sản rủi ro cao.
Tín dụng linh hoạt, giữ cân bằng “cán cân kép”
Nếu lãi suất là chiếc “cân” thì tín dụng chính là quả nặng quyết định cán cân nghiêng về đâu. Chính phủ vừa điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng 2025 lên mức 8,3 - 8,5%, thay cho mức 8% ban đầu, nhằm chuẩn bị nền tảng bứt phá giai đoạn 2026 - 2030. Với yêu cầu này, tín dụng chắc chắn phải đóng vai trò trụ cột, khi mỗi hai đồng tín dụng có thể đóng góp một đồng vào GDP.
Ngay từ cuối năm 2024, Ngân hàng Nhà nước đã công khai nguyên tắc giao hạn mức tín dụng 2025, cho phép các ngân hàng chủ động hơn trong triển khai. Ngày 29/7/2025, tín dụng toàn hệ thống tăng 9,8% so với cuối năm 2024; ngày 31/7, nhà điều hành tiếp tục thông báo tăng thêm chỉ tiêu tín dụng, minh bạch và chủ động mà không cần các ngân hàng đề nghị. Điều này thể hiện sự linh hoạt của cơ quan điều hành, đồng thời phản ánh khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đang cải thiện.
Không dừng lại ở đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 14/2025/TT-NHNN, mở đường cho việc áp dụng chuẩn Basel III. Với các yêu cầu mới về tỷ lệ an toàn vốn, bộ đệm vốn phản chu kỳ và phương pháp xếp hạng nội bộ, hệ thống tín dụng Việt Nam đang tiến gần hơn tới chuẩn mực quốc tế, đồng thời tạo nền tảng để vận hành an toàn và hiệu quả hơn.
Tuy vậy, tín dụng tăng nhanh không tránh khỏi áp lực thanh khoản. Lãi suất huy động ở một số ngân hàng nhỏ đã có dấu hiệu nhích tăng, trong khi dòng tiền bị hút mạnh vào chứng khoán và vàng. Song áp lực này chủ yếu mang tính cục bộ, bởi các ngân hàng lớn vẫn đủ tiềm lực để giữ ổn định lãi suất. Thêm vào đó, hệ thống ngân hàng đã áp dụng nhiều công cụ kiểm soát rủi ro, từ Basel II, Basel III đến giám sát theo thời gian thực và mô hình cảnh báo sớm.
Theo TS. Châu Đình Linh, điều quan trọng nhất là hướng dòng vốn đúng địa chỉ: sản xuất, công nghệ cao, năng lượng xanh,… thay vì bất động sản rủi ro hay các tài sản bong bóng. Chỉ khi đó, tín dụng mới vừa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng, vừa tránh được nguy cơ bất ổn.
Trong khi đó, chính sách tỷ giá cũng được điều hành linh hoạt để giảm thiểu tác động từ bên ngoài. Từ năm 2016, Ngân hàng Nhà nước đã công bố tỷ giá trung tâm biến động hàng ngày, mở rộng biên độ giao dịch USD/VND, đồng thời can thiệp thị trường ngoại hối linh hoạt khi có biến động. Nhờ vậy, đồng Việt Nam vẫn duy trì ổn định hơn so với nhiều đồng tiền khác trong khu vực, giúp bảo đảm cân đối vĩ mô, hỗ trợ thương mại và đầu tư quốc tế.
Nhìn tổng thể, “cán cân” mục tiêu kép của nền kinh tế đang được giữ nhờ sự phối hợp giữa ổn định lãi suất, tăng trưởng tín dụng linh hoạt và điều hành tỷ giá thích ứng. Thách thức không nhỏ, nhưng các bước đi thận trọng, có cơ sở từ Ngân hàng Nhà nước đang tạo nên một bức tranh cân bằng, doanh nghiệp được hưởng lợi từ chi phí vốn giảm, hệ thống tài chính minh bạch và an toàn hơn, còn nền kinh tế có cơ hội tiến gần tới mục tiêu tăng trưởng 8,3 - 8,5% trong năm nay.
Tại Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi và giảm lãi suất cho vay được tổ chức mới đây, các nhà băng được Ngân hàng Nhà nước giao nhiệm vụ ổn định và phấn đấu giảm lãi suất tiền gửi, qua đó góp phần ổn định thị trường tiền tệ, tạo dư địa giảm lãi suất cho vay.
Để giảm lãi suất cho vay, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa trong tiết giảm chi phí hoạt động; tăng cường ứng dụng chuyển đổi số; tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; các động lực tăng trưởng kinh tế và kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Các tổ chức tín dụng cũng cần ưu tiên nguồn vốn hơn nữa cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, tín dụng xuất khẩu, tín dụng theo chuỗi cung ứng.