Tại Hội nghị công bố triển khai cấp C/O, đối thoại với doanh nghiệp do Sở Công Thương Hà Nội phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tổ chức sáng 28/10, tại Hà Nội, các câu hỏi liên quan đến cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (cấp C/O) được các doanh nghiệp xuất khẩu quan tâm và đặt vấn đề cho cơ quan quản lý.
Nỗ lực cải cách thủ tục hành chính, đảm bảo tuân thủ cam kết quốc tế
Cung cấp thông tin về vấn đề này, bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, cho biết, việc cấp C/O trực tuyến thay thế C/O giấy là một trong những định hướng quan trọng trong cải cách thủ tục hành chính, được Bộ Công Thương và Sở Công Thương Hà Nội phối hợp triển khai. Tuy nhiên, hình thức cấp C/O (điện tử hay giấy) còn phụ thuộc vào sự chấp thuận của cơ quan hải quan nước nhập khẩu.

Bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp xuất khẩu tại hội nghị. Ảnh: Phong Lâm
Hiện nay, phần lớn các mẫu C/O đã được cấp dưới dạng điện tử. Tuy nhiên, với ba mẫu C/O cụ thể theo quy định của các hiệp định thương mại tự do và cam kết song phương, cơ quan hải quan nước nhập khẩu vẫn yêu cầu C/O bản giấy. Cụ thể, với Hiệp định EVFTA, mẫu C/O EUR.1 vẫn yêu cầu bản giấy; Hiệp định UKVFTA, mẫu EUR.1 UK vẫn duy trì bản giấy do lý do lịch sử liên quan đến EU; Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU), mẫu EAV áp dụng cho Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia, Kyrgyzstan vẫn cấp bản giấy.
Chỉ khi các nước nhập khẩu chấp nhận truyền dữ liệu C/O điện tử, việc cấp C/O mới có thể chuyển hoàn toàn sang hình thức điện tử. Việt Nam nỗ lực hướng tới 100% quy trình điện tử, nhưng vẫn phải tuân thủ quy định và cam kết quốc tế.
Về đề xuất đào tạo toàn diện, Cục Xuất nhập khẩu ghi nhận và sẽ phối hợp chặt chẽ với Sở Công Thương Hà Nội cùng các cơ quan liên quan để tổ chức các chương trình tập huấn thường xuyên. Doanh nghiệp có thể cập nhật thông tin qua Sở Công Thương, Báo Công Thương, Tạp chí Công Thương, nhằm nắm bắt kiến thức mới và thay đổi quy tắc xuất xứ hàng hóa, xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh xuất khẩu phù hợp.
Trong phần thảo luận, các doanh nghiệp cũng quan tâm đến việc chuyển việc cấp C/O từ VCCI sang Bộ Công Thương. Đây là bước thay đổi được đa số ủng hộ, nhưng cũng có băn khoăn về vướng mắc. Theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025, Bộ trưởng Bộ Công Thương chỉ được ủy quyền hoặc phân cấp cho các cơ quan nhà nước trực thuộc. VCCI không phải cơ quan nhà nước, nên việc cấp C/O qua VCCI không còn phù hợp. Việc chuyển sang Bộ Công Thương thực hiện đúng luật, tôn trọng thượng tôn pháp luật.
Sau khi luật có hiệu lực, cùng với Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Nghị định 146/2025/NĐ-CP và Thông tư 40/2025/TT-BCT, việc cấp C/O được phân quyền, phân cấp cho các tỉnh, thành. UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm và có thể giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc.
Ví dụ tại Hà Nội, Sở Công Thương Hà Nội được ủy quyền triển khai việc cấp C/O và cấp văn bản chấp thuận cho thương nhân tự chứng nhận xuất xứ, thực hiện nhiệm vụ do UBND TP. Hà Nội giao. Doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ cấp C/O tại các địa phương khác ngoài nơi đặt cơ sở sản xuất. Ví dụ, Sở Công Thương Hà Nội tiếp nhận hồ sơ từ các doanh nghiệp không chỉ tại Hà Nội mà còn từ các tỉnh khác.
Theo đó, doanh nghiệp có cơ sở sản xuất ở tỉnh khác nhưng trụ sở thương mại tại Hà Nội vẫn dễ dàng thực hiện thủ tục. Doanh nghiệp tại Hà Nội xuất khẩu hàng hóa qua cửa khẩu Quảng Ninh, Lạng Sơn, cảng Cát Lái hay cảng Hải Phòng có thể chọn cơ quan cấp C/O phù hợp.
Tuy nhiên, sau khi chọn một cơ quan cấp C/O cho lô hàng, doanh nghiệp cần tiếp tục thực hiện các lô hàng tiếp theo tại cùng cơ quan, đồng thời liên hệ với hệ thống eCoSys và Cục Thương mại điện tử – Kinh tế số (Bộ Công Thương) để được cấp tài khoản. Cơ chế này đảm bảo tính nhất quán, minh bạch và thuận lợi trong quản lý hồ sơ điện tử.
C/O là tài sản thương mại quan trọng
Liên quan đến trường hợp doanh nghiệp phản ánh C/O đã cấp nhưng bị hủy hoặc thu hồi, bà Trịnh Thị Thu Hiền, nhấn mạnh: “Chúng tôi cần số C/O đã cấp, đã bị hủy và bị thu hồi, kèm theo thông tin cụ thể về hồ sơ để Cục kiểm tra. Khi cấp hay hủy C/O đều phải có căn cứ pháp lý rõ ràng. Cục sẽ lắng nghe và kiểm tra toàn bộ dữ liệu liên quan để làm rõ”.
Lãnh đạo các đơn vị Cục, Vụ thuộc Bộ Công Thương tham dự, lắng nghe và giải đáp các thắc mắc, kiến nghị của doanh nghiệp xuất khẩu tại hội nghị. Ảnh: Phong Lâm
Bà Hiền cũng cảm ơn Sở Công Thương Hà Nội đã tổ chức buổi đối thoại, giúp doanh nghiệp giải tỏa thắc mắc. Doanh nghiệp có ý kiến về hồ sơ có thể liên hệ trực tiếp với chuyên viên Cục Xuất nhập khẩu để được phản hồi trực tiếp.
Về mã QR và tra cứu C/O điện tử, bà Hiền cho hay, các C/O điện tử hiện đã được tích hợp QR code. Khi quét, đường link dẫn đến thông tin C/O. Với các lô hàng có dữ liệu chưa xuất hiện tại hải quan, cần xác định nguyên nhân là do vướng mắc ở cơ quan cấp C/O, đường truyền dữ liệu hay hệ thống một cửa quốc gia, để có hướng xử lý cụ thể.
“QR code giúp cơ quan hải quan nước nhập khẩu giảm tần suất liên hệ với Việt Nam, tăng cường minh bạch và thuận tiện. Tuy nhiên, tại một số thị trường như Trung Quốc, dữ liệu quét có thể dẫn đến đường link khác, không phải chính thống, dẫn đến nghi ngờ về xuất xứ và tính hợp pháp, thậm chí nghi ngờ gian lận”, bà Hiền lưu ý.
Về các khuôn khổ FTA mà Việt Nam tham gia và đã triển khai cấp C/O điện tử hoàn toàn gồm: Khuôn khổ ASEAN – 10 nước thành viên; khuôn khổ ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) và khuôn khổ VKFTA (Việt Nam – Hàn Quốc).
Về ba mẫu C/O này, bà Hiền lưu ý chúng ta sẽ không có sản phẩm đầu ra là giấy cụ thể. Sau khi cấp xong, dữ liệu C/O sẽ được truyền trực tiếp sang cơ quan hải quan Việt Nam qua một cửa quốc gia, sau đó chuyển tiếp sang cơ quan hải quan nước nhập khẩu theo thỏa thuận song phương. Việc truyền dữ liệu điện tử hiện chỉ áp dụng cho ba mẫu trên, theo thống nhất giữa Việt Nam và nước nhập khẩu.

Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: N.H
Với các thị trường khác, Cục Xuất nhập khẩu và Cục Thương mại điện tử – Kinh tế số đang làm việc để hướng tới truyền dữ liệu điện tử trong tương lai, phụ thuộc vào sự chấp thuận và khả năng kết nối của nước nhập khẩu. Các mẫu C/O khác sẽ được xuất ra PDF kèm QR code, đảm bảo minh bạch và thuận tiện trong xác thực xuất xứ hàng hóa.
Ba mẫu C/O bắt buộc bản giấy gồm EUR.1 trong EVFTA; EUR.1 UK trong UKVFTA; EAV trong Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á – Âu (EAEU). Doanh nghiệp cần phân biệt: mẫu nào cấp hoàn toàn điện tử, mẫu nào cấp điện tử nhưng sản phẩm đầu ra là PDF, mẫu nào cấp điện tử nhưng sản phẩm đầu ra vẫn là giấy. Đây là điểm quan trọng khi thực hiện thủ tục xuất khẩu.
Cũng theo bà Hiền, không phải tất cả FTA đều cho phép tự chứng nhận xuất xứ. Ví dụ, trong khuôn khổ ASEAN, thương nhân muốn tự chứng nhận xuất xứ cần có văn bản chấp thuận của Sở Công Thương Hà Nội hoặc cơ quan cấp C/O. Sau khi có văn bản này, thương nhân mới được quyền tự chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa của mình.
Trong khi các khuôn khổ khác họ cho phép doanh nghiệp được tự chứng nhận nhưng chịu hoàn toàn trách nhiệm pháp lý. Nếu không chứng minh xuất xứ khi bị kiểm tra, ưu đãi thuế có thể bị thu hồi, doanh nghiệp bị phạt.
Một số cam kết với EU cho phép lô hàng dưới 6.000 Euro tự chứng nhận xuất xứ mà không cần văn bản chấp thuận. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn phải lưu giữ chứng cứ; việc chia nhỏ lô hàng phải hợp lý, tránh bị coi là gian lận.
“Tự chứng nhận xuất xứ đem lại thuận lợi nhưng kèm ràng buộc trách nhiệm pháp lý lớn. Doanh nghiệp cần chuẩn bị hồ sơ, chứng từ đầy đủ và tuân thủ hướng dẫn để tránh rủi ro”, bà Hiền lưu ý và nhấn mạnh: “C/O chính là “tiền”, phần thuế mà đối tác nước ngoài được hưởng. Khi ký hợp đồng, giá bán thường kèm cam kết cung cấp C/O để hưởng ưu đãi thuế. Dù giá bán cao, bên nhập khẩu vẫn có lợi nhờ ưu đãi thuế. Do đó, C/O phải được quản lý chặt chẽ và sử dụng có trách nhiệm”.
C/O đem lại lợi ích lớn nhưng kèm theo ràng buộc pháp lý nặng. Doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức về xuất xứ, chuẩn bị hồ sơ, kế hoạch sản xuất phù hợp để đảm bảo hàng hóa đáp ứng quy tắc xuất xứ và thực sự tận dụng được ưu đãi từ các FTA, tránh rủi ro bị thu hồi ưu đãi và chịu phạt.