Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng dưới khía cạnh pháp lí - Thực trạng và một số khuyến nghị hoàn thiện

(Banker.vn) Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động cần thiết bởi điều này sẽ góp phần quan trọng vào việc đảm bảo sự bình đẳng, trung thực và lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay, khung pháp lí điều chỉnh về vấn đề này chưa thật sự đầy đủ, thống nhất, do đó đã ảnh hưởng đến tính hiệu quả trong việc kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.
Tóm tắt: Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động cần thiết bởi điều này sẽ góp phần quan trọng vào việc đảm bảo sự bình đẳng, trung thực và lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay, khung pháp lí điều chỉnh về vấn đề này chưa thật sự đầy đủ, thống nhất, do đó đã ảnh hưởng đến tính hiệu quả trong việc kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Bài viết tập trung khái quát các vấn đề về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng; phân tích, đánh giá, chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật điều chỉnh về cạnh tranh không lành mạnh, từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện về mặt pháp lí.

Từ khóa: Hoạt động ngân hàng, cạnh tranh không lành mạnh, chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp lí, bất cập, hoàn thiện.
 
REGULATORY FRAMEWORK IN COMBATING UNFAIR COMPETITION IN BANKING ACTIVITIES: CURRENT STATUS AND RECOMMENDATIONS
 
Abstract: Combating unfair competition in banking activities is one of the necessary activities because this will make an important contribution to ensuring equality, honesty and health in banking activities. However, currently, the regulatory framework in this field is not really complete and unified, which has affected the effectiveness in controlling unfair competitive behaviors in banking activities. Starting from there, the article focuses on generalizing the problems of unfair competition in the field of banking, analyzing and evaluating then points out the limitations and inadequacies in the legal regulations governing this issue, thereby offering some proposals for legally complete solutions.
 
Keywords: Banking activities, unfair competition, anti-unfair competition, legal, inadequate, complete.
 
1. Đặt vấn đề
 
Trong tiến trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có vai trò là động lực chủ yếu thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hay nói cách khác, cạnh tranh là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể tạo động lực và điều kiện cho các chủ thể kinh doanh phát triển. Tuy nhiên, nếu không tạo được hành lang pháp lí ổn định, chặt chẽ để kiểm soát thì rất dễ xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, tác động xấu đến thị trường. Đặc biệt, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng lại càng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự vận hành và phát triển bền vững của nền kinh tế. Có thể khẳng định rằng, đây là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có tính chất dây chuyền khi xảy ra sự cố. Do vậy, cần thiết phải có sự điều chỉnh bởi các chế định pháp luật, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống pháp luật điều chỉnh về hoạt động kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng vẫn chưa thật sự đầy đủ, thống nhất, điều này tạo ra nhiều khó khăn cho công tác áp dụng thực thi pháp luật trên thực tế, từ đó làm cho việc kiểm soát các hành vi này trong hoạt động ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá và chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, từ đó đưa ra các kiến nghị khắc phục nhằm tạo ra khung pháp lí vững chắc để phục vụ hiệu quả cho việc kiểm soát các hành vi này là điều rất quan trọng và cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
 
2. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
 
Căn cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2018 thì “hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”. Theo đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể hiểu là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
 
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh, do vậy, hoạt động này tất yếu cũng mang những đặc điểm của hoạt động kinh doanh nói chung. Một hành vi được coi là hoạt động ngân hàng khi doanh nghiệp đó thực hiện hoạt động trên lĩnh vực ngân hàng một cách thường xuyên, liên tục và thu nhập có được từ hoạt động này là thu nhập cơ bản của doanh nghiệp đó. Theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017, hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Giống như các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh khác, trong quá trình thực hiện kinh doanh, hoạt động ngân hàng cũng phát sinh các trường hợp cạnh tranh không lành mạnh, điều này không chỉ tác động tiêu cực đến quyền và lợi ích của các bên liên quan mà còn đi ngược lại với đạo đức kinh doanh, trái với tinh thần pháp luật cạnh tranh. 
 
Ở Việt Nam, hiện nay không có điều khoản cụ thể quy định khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Xét trong bối cảnh hoạt động ngân hàng, có thể tham khảo tại khoản 4 Điều 3 Dự thảo Nghị định lần 2 của Chính phủ quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này. Theo đó, cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là “hành vi cạnh tranh của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác”. Từ nội hàm cách hiểu này, có thể rút ra được hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng có một số dấu hiệu nhận biết như sau:
 
Thứ nhất, đây là hành vi của các tổ chức tín dụng phát sinh trong hoạt động ngân hàng, trái với đạo đức kinh doanh thông thường; đi ngược lại các nguyên tắc thiện chí, trung thực trong kinh doanh1. Theo đó, đạo đức kinh doanh ngân hàng là những quy tắc, chuẩn mực quy định dành cho các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh. Với tư cách là một chủ thể kinh doanh, các tổ chức tín dụng phải chịu sự điều chỉnh của nhiều quy tắc, chuẩn mực nhằm hướng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng. Còn nguyên tắc thiện chí, trung thực là nguyên tắc nền tảng cơ bản nhất trong kinh doanh, bởi lẽ hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nào, dù đơn giản hay phức tạp, lợi nhuận cao hay thấp thì khi thực hiện hoạt động kinh doanh, sự trung thực và thiện chí luôn được đặt lên hàng đầu. Một hành vi của tổ chức tín dụng đi ngược lại nguyên tắc này khi hành vi đó thể hiện sự bất bình đẳng, gian dối và vì mục tiêu lợi nhuận mà bất chấp sự an toàn của doanh nghiệp đối thủ cũng như của người tiêu dùng.
 
Thứ hai, gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại đến lợi ích của các tổ chức tín dụng, người tiêu dùng cũng như an toàn của hệ thống tín dụng quốc gia. Đầu tiên, thiệt hại ở đây được hiểu là những thiệt hại về vật chất, tức là ảnh hưởng tới doanh thu, khả năng sinh lợi trong hoạt động của đối thủ cạnh tranh và những tổn hại về uy tín của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Vấn đề có thể gây thiệt hại cần được xem xét một cách cẩn trọng, bởi lẽ hoạt động ngân hàng là một hoạt động hết sức nhạy cảm và có tính chất dây chuyền khi xảy ra sự cố, bất cứ thông tin gì dù là nhỏ nhất cũng có thể ảnh hưởng đến an toàn của các tổ chức tín dụng cũng như lợi ích của khách hàng. Do vậy, khi một hành vi cạnh tranh của tổ chức tín dụng có nguy cơ gây thiệt hại đến tổ chức tín dụng đối thủ thì tổ chức tín dụng đối thủ cần tìm đến công cụ hỗ trợ đắc lực đó là cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hạn chế tối đa rủi ro cho cả hai bên cũng như cho cả nền kinh tế - xã hội. Tiếp theo, cần phải chứng minh mức độ thiệt hại gây ra cho đối thủ cạnh tranh. Hành vi xâm phạm đến quyền lợi của đối thủ cạnh tranh là khả năng gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh như giảm lợi nhuận của doanh nghiệp đối thủ; giảm số lượng khách hàng; giảm uy tín của doanh nghiệp khác trên thị trường… dẫn tới khả năng ảnh hưởng đến các chỉ tiêu đảm bảo an toàn của tổ chức tín dụng đối thủ. Bên cạnh đó, cần xác định được thiệt hại gây ra cho người tiêu dùng trong hoạt động ngân hàng là gì. Người tiêu dùng trong hoạt động ngân hàng bao gồm: Người gửi tiền, người vay tiền và người sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác. Một hành vi được xem là xâm hại đến quyền lợi của người tiêu dùng trong hoạt động ngân hàng là hành vi xâm phạm đến quyền lợi của người gửi tiền như hành vi sử dụng tiền huy động vào mục đích khác; không thực hiện cam kết với người gửi tiền; hành vi xâm phạm quyền lợi của người vay tiền như áp đặt các điều kiện đối với người đi vay như chỉ được vay ở tổ chức tín dụng này mà không được vay ở tổ chức tín dụng khác; hay là khi vay tiền ở tổ chức tín dụng này cần phải đáp ứng thêm các điều kiện khác mà pháp luật không quy định… Cuối cùng, cần xác định được thiệt hại khi xâm phạm đến lợi ích của xã hội. Trong đó, cần xác định xâm phạm tới lợi ích của xã hội là khả năng gây ra tác động xấu đến chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, khả năng cung ứng nguồn vốn phục vụ cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế; giảm giá trị đồng tiền; hiệu quả thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia không đạt được do công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia không phát huy được tác dụng2.
 
Thứ ba, thông thường, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có mức độ ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường hẹp, thường chỉ tác động lên một số chủ thể nhất định mà không ảnh hưởng đến một khu vực thị trường rộng như hành vi hạn chế cạnh tranh, ngay cả khi hành vi đó do tính chất, mức độ nguy hại của nó xâm phạm đến các đối tượng được Luật Hình sự bảo vệ3. Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng không tồn tại trong cùng xu hướng chung đó. Xuất phát từ những đặc thù trong lĩnh vực ngân hàng, nhóm tác giả cho rằng, cần xác định mức độ ảnh hưởng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng ở trong phạm vi rộng lớn, có thể là trong toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng. Sở dĩ nhóm tác giả khẳng định như vậy là vì:
 
Một là, khác với các hoạt động kinh doanh thông thường khác, sự hợp tác giữa các tổ chức tín dụng trong kinh doanh mang tính chất lâu dài, ổn định và có hệ thống chứ không chỉ là “cái bắt tay” một cách tạm thời và gián đoạn. Các nhà làm luật Việt Nam cũng đã cụ thể hóa sự hợp tác này trong các điều khoản cụ thể của văn bản pháp luật. Tuy nhiên, sự hợp tác giữa các tổ chức tín dụng chỉ thật sự bình đẳng, thân thiện và minh bạch nếu việc hợp tác diễn ra công khai, rõ ràng và có thể kiểm soát được.
 
Hai là, hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro cao. Bất kì yếu tố nào từ thị trường bên ngoài cũng đều có khả năng ảnh hưởng đến sự hoạt động và phát triển bình thường của lĩnh vực này; và ngược lại, bất kì sự biến động nào trong hoạt động ngân hàng cũng có thể ảnh hưởng đến sự vận hành và phát triển của nền kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, hoạt động ngân hàng không chỉ chịu rủi ro phát sinh từ tự thân của nó mà còn chịu rủi ro từ các yếu tố trong môi trường xung quanh.
 
Ba là, trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì số lượng các ngân hàng ngày càng tăng. Điều này một mặt chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tổ chức tín dụng, mặt khác thể hiện sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt hơn.
 
Từ những phân tích trên, có thể rút ra kết luận rằng, cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi của tổ chức tín dụng trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong hoạt động ngân hàng, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng khác, của người tiêu dùng cũng như lợi ích của Nhà nước.
 
3. Thực trạng pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
 
Hiện nay, ở Việt Nam, chưa có một đạo luật riêng biệt chuyên ngành nào quy định riêng về bảo vệ cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, mà mới chỉ dừng lại ở việc đề cập, nhận diện thông qua các văn bản pháp luật có liên quan. Cụ thể, dưới góc độ Luật Cạnh tranh thì Luật Cạnh tranh năm 2018 ra đời chỉ quy định một cách bao quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung. Dưới góc độ pháp luật về ngân hàng, tại Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định về Hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng xác định: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Bên cạnh đó, Dự thảo Nghị định lần 2 của Chính phủ quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này cũng đưa ra khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Như vậy, có thể thấy rằng, hiện nay, khung pháp lí điều chỉnh về hoạt động chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng vẫn chưa đầy đủ, rõ ràng. Việc xác định, nhận diện các vấn đề cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng hiện nay phải dựa vào các văn bản pháp luật có liên quan như Luật Cạnh tranh, Luật Các tổ chức tín dụng... Tuy nhiên, các vấn đề pháp lí trong các văn bản này điều chỉnh về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng vẫn còn mang tính nguyên tắc, mơ hồ, khó xác định, điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau:
 
Thứ nhất, đối với quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018. Tại khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2018 đã đưa ra định nghĩa về thuật ngữ cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, quy định này chưa thể hiện rõ được thế nào là nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh là gì. Đây là phạm trù mang tính định tính cao, việc xác định rõ nội hàm các thuật ngữ này còn phụ thuộc chặt chẽ vào bề dày lịch sử phát triển kinh tế, trình độ lập pháp quốc gia. Nếu không có các quy định cụ thể thì sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng không thống nhất.
 
Thứ hai, đối với quy định trong pháp luật về lĩnh vực ngân hàng. Mặc dù Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành đã có sự ghi nhận về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, tuy nhiên, Luật này mới chỉ dừng lại ở các quy định chung mà chưa có quy định cụ thể, chi tiết. Cho đến nay, chỉ có Dự thảo Nghị định lần 2 vào tháng 6/2011 quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này. Vì ra đời vào năm 2011 nên Luật Cạnh tranh mà Dự thảo Nghị định này dẫn chiếu là Luật Cạnh tranh năm 2004 (đã hết hiệu lực), trong khi Luật Cạnh tranh hiện hành năm 2018 ra đời có nhiều điểm khác biệt so với Luật Cạnh tranh cũ. Do vậy, khi “vận dụng” quy định của Luật Cạnh tranh nói chung, của Dự thảo Nghị định lần 2 nói riêng sẽ dẫn đến sự không thống nhất, thậm chí là bất khả thi cho hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, xét ở khía cạnh nội dung của Dự thảo Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này, nhóm tác giả nhận thấy một số bất cập sau:
 
Một là, chưa làm rõ được khái niệm “hợp tác” và “cạnh tranh” trong hoạt động ngân hàng. Khái niệm “hợp tác” và “cạnh tranh” này cũng được các nhà làm luật đề cập tại Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành. Trong khi đó, lĩnh vực hoạt động ngân hàng đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải có sự hợp tác cùng nhau để có thể tạo ra sự an toàn, ổn định và phát triển của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, hiểu thế nào là hợp tác, cạnh tranh và mức độ hợp tác như thế nào là phù hợp thì hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể.
 
Hai là, khái niệm “hoạt động ngân hàng” được quy định tại khoản 2 Điều 3 của Dự thảo Nghị định chưa có sự thống nhất với Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Ngân hàng Nhà nước hiện hành. Theo đó, Luật Các tổ chức tín dụng (tại khoản 12 Điều 4) và Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (tại khoản 1 Điều 6) hiện hành quy định hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau: Nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Còn Dự thảo Nghị định này lại bổ sung thêm một trường hợp nữa là “hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối”.
 
Ba là, khái niệm “cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng” mà Dự thảo Nghị định đưa ra còn tồn tại một số điểm bất cập. Cụ thể, Dự thảo Nghị định quy định như sau: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi cạnh tranh của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác. Có thể nhận thấy hai vấn đề tồn đọng: 
 
(i) Cụm từ “vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận” trong trường hợp này được sử dụng không hợp lí, bởi lẽ có những chủ thể khi thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh họ đã sẵn sàng bỏ qua mục tiêu lợi nhuận trước mắt, bỏ qua tính toán hiệu quả về mặt kinh tế để có thể giành được thị phần, khách hàng; (ii) Cụm từ “lợi ích của nhà nước”. Việc đề cập đến lợi ích của Nhà nước trong trường hợp này là bất hợp lí bởi lợi ích của Nhà nước, của xã hội đã được thể hiện trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng.
 
Bốn là, khái niệm “bí mật kinh doanh” mà Dự thảo này đưa ra tại khoản 6 Điều 3 còn tồn tại bất cập. Theo đó, Dự thảo quy định “Bí mật kinh doanh trong hoạt động ngân hàng là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”. Qua quy định này, có thể hiểu rằng để một thông tin trở thành bí mật kinh doanh và được pháp luật bảo vệ khi và chỉ khi thỏa mãn đầy đủ cả ba điều kiện: (i) Thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ; (ii) Chưa được bộc lộ; (iii) Có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Theo quan điểm của nhóm tác giả, cách quy định này chưa bao quát đầy đủ và chưa bảo vệ được tối đa thông tin bí mật kinh doanh cho các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp có những thông tin mà tổ chức tín dụng có được từ hoạt động kinh doanh của mình và được tổ chức tín dụng đó bảo mật bằng những biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị phát tán ra ngoài thì có được xem là thông tin bí mật kinh doanh và được pháp luật bảo vệ hay không.
 
Năm là, tiêu chí xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác trong hoạt động ngân hàng tại điểm b khoản 1 Điều 4 Dự thảo Nghị định không phù hợp với nội dung quy định tại khoản 1 Điều 3 mà Dự thảo dẫn chiếu. Trong khi điểm b khoản 1 Điều 4 quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác trong hoạt động ngân hàng sẽ được dẫn chiếu qua khoản 1 Điều 3 Dự thảo của Nghị định, còn tại khoản 1 Điều 3 lại không đề cập đến tiêu chí xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà chỉ đề cập đến chủ thể có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
 
Xuất phát từ những bất cập trên, việc khắc phục những khó khăn và vướng mắc nhằm hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, để từ đó đảm bảo cho hoạt động ngân hàng được diễn ra một cách bình đẳng, lành mạnh, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ, yêu cầu quan trọng, cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
 
4. Một số kiến nghị hoàn thiện
 
Để khắc phục các vấn đề còn hạn chế, bất cập như đã phân tích nêu trên, đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng theo hướng như sau:
 
Thứ nhất, sửa đổi một số bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, về nội dung liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cần thiết phải làm rõ khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh năm 2018, cụ thể là quy định rõ thế nào là “nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh” được đề cập tại khoản 6 Điều 3 của Luật này. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, những nguyên tắc thiện chí, trung thực hay tập quán thương mại đã được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong kinh doanh như những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc. Những nguyên tắc này mang tính định tính cao, nó được hình thành và hoàn thiện cùng với bề dày của lịch sử phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, việc quy định rõ nội dung này nhằm tạo được khung pháp lí thống nhất giúp định hướng hành vi xử sự của các chủ thể kinh doanh theo đúng chuẩn mực. Tiêu chí để xác định vấn đề này có thể dựa vào những nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự, thương mại như nguyên tắc thiện chí, nguyên tắc trung thực, nguyên tắc cẩn trọng và các nguyên tắc khác phù hợp với quy định của pháp luật cũng như yêu cầu của thực tiễn.
 
Thứ hai, hoàn thiện và sớm ban hành Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Theo đó, Chính phủ tiếp tục nhanh chóng hoàn thiện, thông qua và đưa vào áp dụng Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này. Đặc biệt, để Nghị định này thật sự phát huy được tính hiệu quả, khả thi khi đi vào áp dụng trên thực tế, đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện thêm các vấn đề sau:
 
Một là, cần làm rõ quan niệm “hợp tác” và “cạnh tranh” trong hoạt động ngân hàng làm cơ sở cho việc xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Theo từ điển tiếng Việt, cạnh tranh là “đua tranh với nhau giữa những người theo đuổi cùng một mục đích, nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình thế có lợi nhất”4, hợp tác là “cùng chung sức, giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó nhằm một mục đích chung”5. Vậy cạnh tranh như thế nào là lành mạnh và hợp tác ở mức độ nào là hợp pháp khi mà trong hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Điều này không tránh khỏi trường hợp có những chủ thể lợi dụng việc hợp tác để trục lợi bất hợp pháp hoặc gây khó khăn cho đối tác. Do vậy, hành vi lợi dụng quy định về sự hợp tác trong hoạt động ngân hàng phải được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
 
Hai là, về khái niệm “hoạt động ngân hàng” tại khoản 2 Điều 3 Dự thảo Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này không có sự thống nhất so với Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, tại khoản 12 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và khoản 1 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau: (i) Nhận tiền gửi; (ii) Cấp tín dụng; (iii) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Dự thảo Nghị định ra đời năm 2011, trên cơ sở Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 nhưng lại có sự khác biệt khi quy định về khái niệm hoạt động ngân hàng. Ngoài ba trường hợp trên, Dự thảo Nghị định bổ sung thêm trường hợp “hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối”. Theo quan điểm của nhóm tác giả, không nên bổ sung thêm trường hợp “hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối” vào khái niệm “hoạt động ngân hàng”, bởi lẽ, đây là một nội dung kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng nếu tổ chức tín dụng đã đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
 
Ba là, với khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại khoản 4 Điều 3 Dự thảo Nghị định quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng và hình thức xử lí thì dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh là “vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận” mà thực hiện các hành vi vi phạm “chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”. Thực tế cho thấy, việc thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể trên thị trường không phải lúc nào cũng vì mục tiêu lợi nhuận, có những trường hợp chỉ vì muốn gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh sẵn sàng bỏ qua mục tiêu lợi nhuận, chấp nhận thua lỗ trong một thời gian (điển hình là hành vi bán sản phẩm hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới toàn bộ giá thành) để tạo lợi thế cạnh tranh hơn so với các chủ thể kinh doanh khác. Khi đó, nếu xét theo nội hàm khái niệm trên thì hành vi này có được coi là cạnh tranh không lành mạnh không. Ngoài ra, cụm từ “lợi ích của Nhà nước” được đề cập trong khái niệm trên là không phù hợp bởi, lợi ích của Nhà nước, của xã hội đã được thể hiện trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng. Do đó, nhóm tác giả kiến nghị nên sửa đổi khái niệm này theo hướng sau: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi cạnh tranh của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh; có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác.
 
Bốn là, tại khoản 6 Điều 3 Dự thảo Nghị định có quy định “Bí mật kinh doanh trong hoạt động ngân hàng là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”. Quy định này được ra đời vào năm 2011 (tức thời điểm Luật Cạnh tranh năm 2004 đang có hiệu lực) là phù hợp với quy định tại khoản 10 Điều 3 của Luật Cạnh tranh năm 2004. Theo đó, một thông tin trở thành bí mật kinh doanh thì phải đáp ứng những điều kiện Luật định. Tuy nhiên, cho đến nay, quy định này đã không còn phù hợp. Luật Cạnh tranh năm 2018 ra đời đã sửa đổi theo hướng quy định tất cả các thông tin mà doanh nghiệp có được từ hoạt động kinh doanh của mình và được doanh nghiệp khác bảo mật bằng cách áp dụng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được đều được xem là bí mật kinh doanh. Hay nói cách khác, theo Luật Cạnh tranh năm 2018, bất kì thông tin nào cũng có thể trở thành bí mật trong kinh doanh khi doanh nghiệp áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ chúng. Do đó, nhóm tác giả kiến nghị nên sửa đổi theo hướng sau: Bí mật kinh doanh trong hoạt động ngân hàng là bất kì thông tin nào mà tổ chức tín dụng thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ và được tổ chức tín dụng đó bảo mật bằng cách áp dụng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
 
Năm là, điểm b khoản 1 Điều 4 không phù hợp với nội dung quy định tại khoản 1 Điều 3 Dự thảo Nghị định, cụ thể: Tại điểm b khoản 1 Điều 4 quy định “các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác trong hoạt động ngân hàng căn cứ theo tiêu chí xác định tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định này”, trong khi đó tại khoản 1 Điều 3 không đề cập đến tiêu chí xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà chỉ đề cập đến chủ thể có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Do vậy, cần quy định cụ thể về tiêu chí xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác là gì để tránh sự khó hiểu hoặc nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc thực thi pháp luật trên thực tế không hiệu quả.
 
5. Kết luận
 
Trong xu thế toàn cầu hóa với nền kinh tế phát triển như hiện nay, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng phức tạp và tinh vi, điều này dẫn đến việc quản lí và kiểm soát hành vi này trên thực tế ngày càng khó khăn. Từ những kết quả phân tích và nghiên cứu trên, có thể thấy, chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp thiết, ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ quốc gia và niềm tin của công chúng vào chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, làm rõ các vấn đề còn hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật điều chỉnh về hoạt động kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng; từ đó, đưa ra các giải pháp để khắc phục, hoàn thiện nhằm tạo ra hành lang pháp lí vững chắc để phục vụ cho việc điều chỉnh vấn đề này là rất quan trọng, cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. 
 

1 Xem thêm, Jérôme Ballet, Francoise De Bry (2005), Doanh nghiệp và đạo đức, Nxb Thế giới, Hà Nội.
2 Viên Thế Giang (2014), Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học xã hội - Hà Nội; tr. 38.
3 Tăng Văn Nghĩa (2009), Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, tr.136.
4 Viện Ngôn ngữ học (1989), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 129.
5 Viện Ngôn ngữ học (1989), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 489. 
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010.
2. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017.
3. Luật Cạnh tranh năm 2018.
4. Dự thảo Nghị định lần 2 của Chính phủ quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lí các hành vi này.
5. Jérôme Ballet, Francoise De Bry (2005), Doanh nghiệp và đạo đức, Nxb Thế giới, Hà Nội.
6. Tăng Văn Nghĩa (2009), Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
7. Viên Thế Giang (2014), Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học xã hội - Hà Nội.
8. Viện Ngôn ngữ học (1989), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

ThS. Phạm Thị Hồng Tâm (Trường Đại học Phan Thiết)
ThS. Trần Linh Huân, Trần Thị Thảo (Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh)
 
 
 
 
Theo: Tạp chí Ngân hàng
    Bài cùng chuyên mục