Cho vay bằng phương tiện điện tử phù hợp với chủ trương chuyển đổi số ngành Ngân hàng

(Banker.vn) Tại Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 810) có đề ra mục tiêu: “Đến năm 2025, ít nhất 50% các nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng có thể thực hiện hoàn toàn trên môi trường số”.
Tại Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 810) có đề ra mục tiêu: “Đến năm 2025, ít nhất 50% các nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng có thể thực hiện hoàn toàn trên môi trường số”. Theo đó, hiện thực hóa các chủ trương, định hướng chuyển đổi số của ngành Ngân hàng, phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ tài chính cũng như các quy định pháp luật liên quan, NHNN đã bổ sung quy định cho vay bằng phương tiện điện tử tại Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (Thông tư số 06). Thông tư số 06 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2023.   
 
Cụ thể, Thông tư số 06 bổ sung Mục 3 Chương II hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử.

Cho vay bằng phương tiện điện tử phải đảm bảo an ninh, an toàn, phù hợp quy định

Thông tư số 06 quy định, TCTD thực hiện cho vay bằng phương tiện điện tử phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh của TCTD, đặc điểm của khoản vay, đảm bảo an ninh, an toàn, bảo vệ thông điệp dữ liệu và bảo mật thông tin phù hợp với quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền, giao dịch điện tử, hướng dẫn của NHNN về quản lí rủi ro và các văn bản pháp luật có liên quan.

Hệ thống thông tin thực hiện hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử phải tuân thủ quy định về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cấp độ 3 trở lên theo quy định của Chính phủ về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ và quy định của NHNN về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng.

TCTD phải lưu trữ, bảo quản thông tin, dữ liệu theo quy định của pháp luật, đảm bảo an toàn, bảo mật và được sao lưu dự phòng đảm bảo tính đầy đủ, toàn vẹn của hồ sơ cho phép truy cập, sử dụng khi cần thiết hoặc để phục vụ công tác kiểm tra, đối chiếu, giải quyết tra soát, khiếu nại, tranh chấp và cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền.
 
 
Việc ban hành Thông tư số 06 nhằm tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lí điều chỉnh hoạt động cho vay
của TCTD đối với khách hàng (Ảnh: Internet)

TCTD tự quyết định biện pháp, hình thức, công nghệ phục vụ hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử, tự chịu rủi ro phát sinh (nếu có) và phải đáp ứng tối thiểu các yêu cầu sau:

- Có giải pháp, công nghệ kĩ thuật đảm bảo tính chính xác, bảo mật, an toàn trong quá trình thu thập, sử dụng, kiểm tra thông tin, dữ liệu.

- Có biện pháp kiểm tra, đối chiếu, cập nhật, xác minh thông tin, dữ liệu; có biện pháp ngăn chặn các hành vi giả mạo, can thiệp, chỉnh sửa làm sai lệch thông tin, dữ liệu.

- Có biện pháp theo dõi, nhận dạng, đo lường và kiểm soát rủi ro; có phương án xử lí rủi ro.

- Phân công trách nhiệm cụ thể từng cá nhân, bộ phận có liên quan trong hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử và trong việc quản lí, giám sát rủi ro.

Cá nhân vay vốn bằng phương tiện điện tử không vượt quá 100 triệu đồng tại một TCTD

Dư nợ cho vay đối với một khách hàng là cá nhân vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống và được nhận biết, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định không vượt quá 100.000.000 đồng Việt Nam tại một TCTD. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi cho TCTD các tài liệu, dữ liệu chứng minh đủ điều kiện vay vốn theo quy định tại Điều 7 Thông tư này và các tài liệu, dữ liệu khác theo hướng dẫn của TCTD.

TCTD tổ chức xét duyệt cho vay bằng phương tiện điện tử phải đảm bảo nguyên tắc phân định trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận xây dựng, thiết lập và vận hành hệ thống thông tin phục vụ khâu thẩm định và quyết định cho vay. Trường hợp có rủi ro phát sinh, TCTD phải có cơ chế để xác định từng cá nhân, bộ phận chịu trách nhiệm và xử lí kịp thời các vấn đề, rủi ro phát sinh để đảm bảo hiệu quả, an toàn trong việc tổ chức xét duyệt cho vay bằng phương tiện điện tử của TCTD. Thỏa thuận cho vay được lập thành văn bản, trường hợp là hợp đồng điện tử thực hiện theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử và phải có tối thiểu các nội dung quy định.

Theo NHNN, việc ban hành Thông tư số 06 nhằm tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lí điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng phù hợp với quy định tại Luật Các TCTD năm 2010 (đã được sửa đổi, bổ sung) và các quy định pháp luật liên quan; bổ sung quy định cho vay bằng phương tiện điện tử phù hợp với định hướng, chủ trương chuyển đổi số của ngành Ngân hàng; qua đó, góp phần đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động cho vay, đáp ứng yêu cầu quản lí nhà nước và thực tiễn thị trường. Bên cạnh đó, Thông tư cũng bổ sung quy định để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động cho vay, bảo vệ quyền lợi của người vay, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; nâng cao tính tự chủ trong hoạt động cho vay của TCTD, đồng thời nâng cao yêu cầu minh bạch hóa, bảo đảm an toàn cho hoạt động cho vay của TCTD.

Tạo điều kiện cho TCTD cho vay bằng phương tiện điện tử an toàn, hiệu quả

Việc bổ sung mục riêng quy định cụ thể về hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử của TCTD đối với khách hàng, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số điều khoản khác cho phù hợp với hình thức cho vay này cũng nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho TCTD trong việc triển khai hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử đảm bảo an toàn, hiệu quả. Điều này cũng phù hợp với quy định tại Luật Các TCTD 2010 (đã được sửa đổi, bổ sung) và định hướng, chủ trương chuyển đổi số ngành Ngân hàng tại Quyết định số 810, cụ thể:

Thứ nhất, quy định các nguyên tắc áp dụng chung phù hợp đặc điểm hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử của TCTD nhằm đảm bảo các yêu cầu về an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật, tiêu chuẩn an toàn hệ thống công nghệ thông tin và quản lí rủi ro trên môi trường điện tử khi TCTD quyết định việc áp dụng phương tiện điện tử trong quy trình cho vay, lựa chọn công nghệ phù hợp đặc điểm hoạt động kinh doanh của TCTD. Theo đó, TCTD tự quyết định biện pháp, hình thức, công nghệ phục vụ hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử, xem xét, quyết định thực hiện hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử theo quy định tại Thông tư.

Thứ hai, quy định việc nhận biết, xác minh thông tin nhận biết khách hàng bằng phương tiện điện tử (eKYC) áp dụng đối với khách hàng là cá nhân, vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống, lần đầu thiết lập mối quan hệ; theo đó, yêu cầu TCTD phải có giải pháp, công nghệ kĩ thuật để nhận biết và xác minh thông tin nhận biết khách hàng phục vụ hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử; chịu trách nhiệm về rủi ro phát sinh (nếu có) và phải đảm bảo tối thiểu các yêu cầu như: (i) Đảm bảo sự khớp đúng giữa thông tin nhận biết khách hàng, dữ liệu sinh trắc học của khách hàng với các thông tin, yếu tố sinh trắc học tương ứng trên các tài liệu, dữ liệu cần thiết nhằm nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền, theo yêu cầu của TCTD, dữ liệu định danh cá nhân được xác thực bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc với cơ sở dữ liệu căn cước công dân, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc bởi tổ chức cung cấp dịch vụ xác thực điện tử theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử hoặc bởi TCTD khác; (ii) Xây dựng quy trình quản lí, kiểm soát, đánh giá rủi ro và phải thường xuyên được rà soát, hoàn thiện dựa trên những thông tin, dữ liệu cập nhật; (iii) Lưu trữ, bảo quản đầy đủ, chi tiết thông tin nhận biết khách hàng, dữ liệu sinh trắc học của khách hàng; âm thanh, hình ảnh, bản ghi hình, ghi âm; số điện thoại thực hiện giao dịch; nhật kí giao dịch trong quá trình cho vay.

Đối với trường hợp khách hàng là cá nhân vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống, đã thiết lập mối quan hệ tại TCTD và hoàn thành việc nhận biết, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, TCTD được quyết định việc áp dụng các biện pháp, hình thức, công nghệ để xác minh thông tin nhận biết khách hàng phục vụ cho vay bằng phương tiện điện tử đảm bảo phù hợp với các thông tin đã biết về khách hàng.

Thứ ba, quy định dư nợ cho vay đối với một khách hàng là cá nhân vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống và được nhận biết, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 32b không vượt quá 100.000.000 đồng Việt Nam tại một TCTD. Trong bối cảnh hiện nay, các khoản vay phát sinh trên môi trường số chủ yếu là các khoản vay cá nhân, nhỏ lẻ phục vụ mục đích tiêu dùng, nhu cầu đời sống và mức độ ứng dụng công nghệ, phương tiện điện tử vào hoạt động cho vay giữa các TCTD không đồng đều, do đó, để đảm bảo an toàn hoạt động cho vay và phù hợp với nhu cầu thực tiễn của TCTD, trước mắt NHNN áp dụng quy định giới hạn 100.000.000 đồng khi khách hàng cá nhân vay phục vụ nhu cầu đời sống khi thực hiện eKYC. Còn đối với các khâu khác trong quy trình thực hiện cho vay, TCTD không bị giới hạn về dư nợ đối với khách hàng (cả khách hàng doanh nghiệp và cá nhân).

Thứ tư, quy định về thẩm định và quyết định cho vay phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 94 Luật Các TCTD 2010 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định về việc tổ chức xét duyệt cho vay theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay; đồng thời phù hợp với đặc thù và thực tiễn triển khai hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử của TCTD dựa trên ứng dụng công nghệ trong khâu thẩm định và phê duyệt cho vay.

Thứ năm, quy định về hồ sơ đề nghị vay vốn, theo đó về thành phần hồ sơ vẫn đảm bảo tuân thủ quy định tại khoản 1 Điều 94 Luật Các TCTD 2010 (đã được sửa đổi, bổ sung); Thông tư quy định cho phép các thành phần hồ sơ là các tài liệu, dữ liệu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng cung cấp và TCTD thu thập tài liệu, dữ liệu trên môi trường số khi triển khai hoạt động cho vay.

Thứ sáu, quy định về thỏa thuận cho vay để tạo điều kiện cho TCTD có cơ sở giao kết thỏa thuận cho vay với khách hàng dưới hình thức hợp đồng điện tử (thay vì chỉ giao kết thỏa thuận cho vay dưới hình thức văn bản giấy truyền thống), phù hợp với đặc thù cho vay trên môi trường điện tử.

Thứ bảy, quy định về lưu giữ hồ sơ cho vay để phù hợp với đặc thù hoạt động cho vay được số hóa trên môi trường điện tử, đồng thời giúp giảm áp lực đối với các TCTD trong việc lưu giữ hồ sơ cho vay theo phương thức truyền thống (đặc biệt đối với khoản vay tiêu dùng có quy mô nhỏ với số lượng lớn). Bên cạnh đó, quyết định cho vay cho phép sử dụng chữ kí điện tử của người có thẩm quyền (thay vì chỉ sử dụng chữ kí trên văn bản giấy truyền thống).

Thứ tám, quy định TCTD ban hành quy định nội bộ về cho vay, bao gồm quy định về cho vay bằng phương tiện điện tử để kiểm soát hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử phù hợp quy định tại Luật Các TCTD.

Thứ chín, quy định về phương tiện thanh toán được sử dụng để giải ngân vốn cho vay, cụ thể: TCTD được xem xét, quyết định lựa chọn phương tiện thanh toán để giải ngân vốn cho vay theo quy định của NHNN về phương thức giải ngân vốn cho vay của TCTD đối với khách hàng. Trường hợp khách hàng là cá nhân vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống và được eKYC theo quy định tại Điều 32b, TCTD được xem xét, quyết định để giải ngân vốn cho vay vào tài khoản thanh toán của khách hàng tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để khách hàng chủ động thanh toán, chi trả các nhu cầu chi tiêu nhỏ lẻ, phục vụ nhu cầu đời sống cho bên thụ hưởng và chịu trách nhiệm về việc sử dụng vốn đúng mục đích.

Đảm bảo an ninh, bảo mật và hiệu quả khi cho vay bằng phương tiện điện tử

Khi triển khai cho vay bằng phương tiện điện tử, TCTD phải đảm bảo an ninh, an toàn, bảo vệ thông điệp dữ liệu và bảo mật thông tin phù hợp với quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền, giao dịch điện tử, hướng dẫn của NHNN về quản lí rủi ro và các văn bản pháp luật có liên quan.

Việc đảm bảo an toàn thông tin, dữ liệu cá nhân, vấn đề an ninh mạng, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên kênh số là ưu tiên hàng đầu của ngành Ngân hàng. Khi triển khai cho vay bằng phương tiện điện tử, không chỉ ngân hàng tăng cường an ninh, bảo mật mà phía khách hàng cũng cần lưu ý các khuyến cáo của ngân hàng trong việc đảm bảo an toàn tài khoản và thông tin cá nhân, tránh bị tội phạm công nghệ hoặc các đối tượng lừa đảo lợi dụng.

Theo đó, các TCTD không ngừng đầu tư các giải pháp về công nghệ và chuẩn hóa hạ tầng cung cấp dịch vụ ngân hàng theo các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế về an ninh, bảo mật, xác định nâng cao kĩ năng tự bảo vệ cho khách hàng có vai trò quan trọng và lâu dài trong phát triển dịch vụ ngân hàng. NHNN đã chỉ đạo các đơn vị trong Ngành triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao nhận thức về an toàn thông tin (ATTT) cho toàn thể cán bộ ngành Ngân hàng và khách hàng của ngành Ngân hàng, trong đó thường xuyên có những cảnh báo về các hình thức tấn công, lừa đảo của tội phạm mạng để hướng dẫn các TCTD triển khai phòng chống và thông tin cho người dân, khách hàng nhận biết, phòng ngừa.

Công tác truyền thông, giáo dục tài chính được ngành Ngân hàng đẩy mạnh nhằm nâng cao kiến thức, kĩ năng của người sử dụng dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số. NHNN đã phối hợp với Truyền hình Việt Nam (VTV) tổ chức các chương trình truyền thông trong đó lồng ghép các nội dung nâng cao nhận thức về ATTT cho người dân khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử như: Tiền khéo tiền khôn, Tay hòm chìa khóa; Đồng tiền thông thái…

Thực hiện chỉ đạo của NHNN, các TCTD đã thực hiện tốt công tác truyền thông về ATTT khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử qua website, ứng dụng Internet Banking/Mobile Banking, email, tin nhắn SMS, banner, poster tại các điểm giao dịch.
Về các giải pháp kĩ thuật: Từ năm 2021, NHNN đã phối hợp với Cục An toàn thông tin - Bộ Thông tin và Truyền thông thiết lập kênh phản ứng nhanh để ngăn chặn kịp thời các website giả mạo các tổ chức trong ngành Ngân hàng. Khi phát hiện có website giả mạo, các ngân hàng sẽ cung cấp thông tin cho Cục An toàn thông tin thông qua kênh phản ứng nhanh để chỉ đạo các nhà cung cấp dịch vụ Internet thiết lập chính sách an ninh mạng ngăn chặn truy cập.

NHNN đã chỉ đạo TCTD thực hiện đăng kí tên miền quốc gia “.vn” và đăng kí bao vây các tên miền “.vn” để bảo vệ thương hiệu, sản phẩm, hoạt động tránh bị lợi dụng, giả mạo.

NHNN đang phối hợp với Bộ Công an hướng dẫn các TCTD triển khai làm sạch dữ liệu khách hàng trên cơ sở đối chiếu với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để hạn chế tình trạng tội phạm mở, sử dụng tài khoản rác; hiện tại đã thực hiện rà soát đối với cơ sở dữ liệu khách hàng vay lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC).

Về phía các TCTD, thực hiện chỉ đạo của NHNN, các TCTD đã tăng cường triển khai các biện pháp nhằm định danh và xác thực chính xác khách hàng. Bên cạnh đó là các giải pháp phòng chống lừa đảo dựa trên hành vi, thói quen, vị trí địa lí… của khách hàng; giải pháp phòng, chống rửa tiền…

Đối với khách hàng, khi sử dụng dịch vụ ngân hàng trên kênh số cần lưu ý bảo mật thông tin cá nhân, tài khoản ngân hàng, không cho thuê, mượn tài khoản ngân hàng; luôn lưu ý các cảnh báo của TCTD về an ninh, bảo mật; không cung cấp mật khẩu truy cập ngân hàng điện tử, mã OTP cho các đối tượng tự xưng là nhân viên ngân hàng, nhà mạng, công ty tài chính, công an; không truy cập vào các website lạ; không nhấp vào đường link trong tin nhắn giả mạo brandname ngân hàng. Nên gõ trực tiếp địa chỉ website ngân hàng; nên đăng xuất khỏi ứng dụng ngân hàng điện tử; không nên dùng máy tính sử dụng mạng wifi công cộng để truy cập vào website ngân hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán, vay tiêu dùng…

Tài liệu tham khảo:

1. Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
2. Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng đối với khách hàng.
 
Thanh Loan (NHNN)
Theo: Tạp chí Ngân hàng