Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024

(Banker.vn) Năm 2023 đã đi qua với nhiều câu chuyện kinh tế nổi bật và một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm rất lớn trong hoạt động của ngành Ngân hàng là vấn đề tăng trưởng tín dụng.

TS. Đào Minh Tú
Phó Thống đốc Thường trực NHNN
 
1. Khó khăn nhiều mặt bủa vây
 
Năm 2023 đã đi qua với nhiều câu chuyện kinh tế nổi bật và một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm rất lớn trong hoạt động của ngành Ngân hàng là vấn đề tăng trưởng tín dụng. Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2023 đạt 13,71%, thấp hơn so với chỉ tiêu định hướng 14 - 15% được Thống đốc NHNN chỉ đạo tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 17/01/2023 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng năm 2023. Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam chịu nhiều tác động phức tạp, đan xen cả từ thị trường trong nước và quốc tế, diễn biến tăng trưởng tín dụng năm 2023 có những điểm rất khác biệt so với những năm trước đây. Khi đó, tăng trưởng tín dụng luôn bám rất sát với chỉ tiêu định hướng của NHNN cho thấy nhu cầu vốn qua kênh tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế là rất lớn và NHNN luôn phải điều hành tín dụng rất linh hoạt để vừa đảm bảo nguồn vốn cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng cũng đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Ngược lại, năm 2023, các TCTD phải đối mặt với tình trạng “thừa tiền”, không thể đẩy mạnh giải ngân tín dụng tới khách hàng do khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế giảm sút đáng kể. Năm 2023 có thể nói là một năm gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều hành tín dụng, thể hiện ở một số khía cạnh:
 
- Cầu tín dụng suy giảm mạnh: Cầu tín dụng ngân hàng suy giảm là hệ quả tất yếu khi nền kinh tế gặp khó khăn và có thể được giải thích thông qua một số nguyên nhân. Một là, các doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh đơn hàng bị cắt giảm, tồn kho lớn do cầu trong nước và quốc tế suy giảm khiến nhu cầu vay vốn ngân hàng giảm. Hai là, kì vọng tăng trưởng kinh tế thế giới và trong nước còn khó khăn1 khiến nhà đầu tư có tâm lí phòng thủ, chờ đợi thời điểm thích hợp hơn để thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh cũng khiến nhu cầu vay vốn giảm. Ba là, tăng trưởng kinh tế khó khăn tác động tới thu nhập của cá nhân và hộ gia đình sẽ làm tăng nhu cầu tiết kiệm để dự phòng cho tương lai và làm giảm nhu cầu vay tín dụng ngân hàng để mở rộng chi tiêu2. Đây là hiện tượng phổ biến trên thế giới, thể hiện rõ nét nhất trong bối cảnh các quốc gia gặp phải các cuộc khủng hoảng kinh tế.
 
- Kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều rủi ro: Tăng trưởng kinh tế thế giới và nhiều quốc gia, khu vực giảm tốc, trong đó có nhiều đối tác thương mại lớn của Việt Nam, tác động tiêu cực tới xuất khẩu trong nước. Lạm phát thế giới vẫn ở mức cao hơn mục tiêu ở nhiều nước khiến nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) chủ chốt tiếp tục tăng và duy trì lãi suất ở mức cao, gây áp lực lớn tới điều hành lãi suất, tỉ giá trong nước. Giá hàng hóa thế giới diễn biến khó lường trước các sự kiện chiến tranh, biến đổi khí hậu, chính sách an ninh lương thực… và tiềm ẩn những rủi ro làm tăng giá hàng hóa trong nước, gây sức ép tới lạm phát. 
 
- Kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn: Tăng trưởng kinh tế sụt giảm trong khi áp lực lạm phát tăng cao ngay từ đầu năm, các hoạt động xuất khẩu, đầu tư gặp khó khăn làm giảm nhu cầu vay vốn. Một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn hoặc còn vướng mắc về thủ tục pháp lí, nhất là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), trong khi việc triển khai các giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, Quỹ Phát triển DNNVV... chưa phát huy hiệu quả; khó khăn từ thị trường bất động sản tác động đến khả năng hấp thụ tín dụng của nhóm bất động sản trong khi tín dụng bất động sản chiếm tỉ trọng khoảng 21% trong tổng tín dụng chung... Khả năng huy động vốn trung, dài hạn của các TCTD còn thấp so với nhu cầu của nền kinh tế; khách hàng vay có tình hình tài chính kém lành mạnh, sử dụng vốn vay sai mục đích; đầu tư, kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến không trả được nợ vay; nợ xấu có xu hướng tăng tại một số TCTD, làm hạn chế khả năng cấp tín dụng. Tất cả những khó khăn nội tại nói trên đã tổng hòa trở thành những rào cản nhất định trong việc cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng tới nền kinh tế. 
 
2. Triển khai đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp điều hành tín dụng
 
Tại Việt Nam, vai trò của kênh tín dụng ngân hàng là đặc biệt quan trọng trong việc cung ứng phát triển kinh tế, đặc biệt là khi các kênh huy động qua thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế giảm sút đáng kể, việc điều hành tín dụng linh hoạt, chủ động để cung ứng đầy đủ vốn cho phục hồi tăng trưởng kinh tế được coi là một giải pháp quan trọng, căn cơ trong tổng thể điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Đứng trước những khó khăn liên tiếp, NHNN đã quyết liệt thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, điều hành tín dụng chủ động, linh hoạt, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế, góp phần hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. Theo đó, NHNN đã có nhiều giải pháp tổng thể, toàn diện để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng, gồm: 
 
- Đảm bảo nguồn cung tín dụng: Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Quốc hội, Chính phủ, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14 - 15% có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Đây là mức tăng trưởng định hướng cao nhất trong vòng 05 năm trở lại đây và cho thấy một thông điệp và quyết tâm của NHNN để mở rộng tín dụng, thực hiện các giải pháp tín dụng hỗ trợ phục hồi kinh tế. Ngay từ đầu năm, NHNN đã thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD và đến tháng 7/2023, NHNN tiếp tục điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng với mức giao toàn hệ thống theo chỉ tiêu định hướng. Mặc dù vậy, tăng trưởng tín dụng vẫn thấp hơn chỉ tiêu định hướng, mức tăng trưởng tín dụng không đồng đều, một số TCTD tăng trưởng khá cao, một số TCTD tăng trưởng thấp, thậm chí tăng trưởng âm. Do đó, để kịp thời tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng phục vụ nhu cầu vốn cho quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã điều hòa chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong toàn hệ thống từ TCTD không sử dụng hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng sang các TCTD cần được tiếp tục mở rộng tăng trưởng tín dụng từ ngày 29/11/2023. Theo đó, ngân hàng có dư nợ tín dụng năm 2023 đạt từ 80% mức dư nợ tín dụng NHNN đã thông báo thì được chủ động điều chỉnh tăng thêm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng theo nguyên tắc NHNN đã thông báo, ngân hàng không cần có văn bản đề nghị NHNN điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Mặc dù việc điều chỉnh này chưa thực sự kịp thời và linh hoạt nhưng cũng đã tạo dư địa để các TCTD tiếp tục đẩy mạnh cấp tín dụng trong thời gian cuối năm. Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tập trung thúc đẩy tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ.
 
- Nỗ lực giảm lãi suất cho vay: Ngay từ khi tăng trưởng quý I/2023 được công bố với mức tăng trưởng giảm tốc đáng kể, trên cơ sở dự báo tình hình lạm phát có khả năng được kiểm soát, NHNN đã liên tục điều chỉnh giảm 04 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm từ 0,5 - 2,0%/năm. Đồng thời, NHNN đã thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để phấn đấu giảm lãi suất cho vay như: (i) Điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt, đảm bảo thanh khoản cho các TCTD, hỗ trợ duy trì lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp để tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay; (ii) Chỉ đạo các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh; (iii) Có công văn yêu cầu các TCTD tiếp tục triển khai các biện pháp để giảm mặt bằng lãi suất, nhất là giảm lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay đang còn dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới (phấn đấu mức giảm lãi suất tối thiểu từ 1,5 - 2%/năm); phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kêu gọi các tổ chức hội viên tiếp tục giảm lãi suất cho vay, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kết quả là, đến cuối năm 2023, mặt bằng lãi suất cho vay đối với các khoản vay mới đã giảm khoảng 2,5% và sẽ tiếp tục xu hướng giảm trong thời gian tới. 
 
- Tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của người dân và doanh nghiệp: Bên cạnh các giải pháp điều hành tín dụng, để nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp, NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp cụ thể như: (i) Rà soát, hoàn thiện thể chế pháp luật trong hoạt động cấp tín dụng nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của các TCTD, đáp ứng nhu cầu vay vốn của người dân, doanh nghiệp và phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng; (ii) Ban hành chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ (Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 của Thống đốc NHNN) nhằm tạo điều kiện cho khách hàng được điều chỉnh kì hạn trả nợ, kéo dài thời gian trả nợ mà không bị chuyển nhóm nợ xấu, được tiếp cận các khoản vay mới phục vụ sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế3(iii) Đẩy mạnh triển khai các chương trình tín dụng tiêu dùng, chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tại 63 tỉnh, thành phố và một số vùng trên cả nước (Đông Nam Bộ, Tây Nguyên), các thành phố trọng điểm (Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên,…), các hội nghị tín dụng chuyên đề (lĩnh vực bất động sản, doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hợp tác xã, nông sản xuất khẩu chủ lực…) nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng...; (iv) Chỉ đạo các TCTD rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho vay và cắt, giảm các loại phí, lệ phí không cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. 
 
Kết quả là, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống liên tục được cải thiện, đến ngày 31/12/2023, tín dụng tăng trưởng 13,71%. Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng phù hợp, lành mạnh hơn, dòng vốn được luân chuyển tới các khu vực sản xuất, kinh doanh, các động lực của nền kinh tế4
 
3. Giải pháp khơi thông dòng vốn tín dụng ngân hàng hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế trong năm 2024
 
Năm 2024 có thể coi là năm bản lề, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã đề ra cho giai đoạn 2021 - 2025. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong điều hành của NHNN năm 2024 đó chính là điều hành tín dụng chủ động, linh hoạt để khơi thông dòng vốn tín dụng ngân hàng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp tích cực vào ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ rất khó khăn khi các kênh huy động vốn khác như cổ phiếu, trái phiếu vẫn còn ách tắc nên nhu cầu vốn vẫn phụ thuộc nhiều vào kênh tín dụng ngân hàng, khiến áp lực đặt nặng lên việc điều hành tín dụng trong khi vẫn cần phải kiên định nguyên tắc không hạ chuẩn tín dụng, đảm bảo kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động hệ thống các TCTD. Bên cạnh đó, kinh tế thế giới được dự báo tiếp tục giảm tốc và các điều kiện tài chính vẫn duy trì thắt chặt ít nhất đến hết nửa đầu năm 2024 sẽ tiếp tục gây sức ép tới công tác điều hành chính sách tiền tệ trong nước. Để vượt qua những thách thức đó, NHNN sẽ tiếp tục quán triệt sâu sắc chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thực hiện có hiệu quả một số giải pháp sau: 
 
Một là, theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước để điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế gắn với kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, ngoại hối và hệ thống ngân hàng. Điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt, đảm bảo thanh khoản, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về vốn của các TCTD. Điều hành lãi suất, tỉ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế nhằm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại tệ. Khuyến khích các TCTD tiết giảm chi phí, đơn giản hóa thủ tục cho vay, tăng cường ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số vào quy trình cho vay, phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ nền kinh tế. 
 
Hai là, điều hành tăng trưởng khối lượng và cơ cấu tín dụng hợp lí, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD. Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng trong cả năm với tốc độ hợp lí; hướng nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. 
 
Ba là, tiếp tục chỉ đạo các TCTD: (i) Thực hiện các giải pháp đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành Ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia; các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù đối với một số ngành, lĩnh vực theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Chương trình tín dụng 120.000 tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ; gói tín dụng 15.000 tỉ đồng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản…); (ii) Chủ động xây dựng các chương trình, sản phẩm tín dụng với lãi suất hợp lí, đáp ứng linh hoạt nhu cầu của nhiều đối tượng, phân khúc khách hàng; (iii) Tích cực triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn theo quy định tại Thông tư số 02/2023/TT-NHNN.
 
Bên cạnh đó, với những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong năm 2023, có thể thấy, để tín dụng ngân hàng thực sự phát huy vai trò là kênh huy động vốn hiệu quả, phục vụ đầy đủ các nhu cầu của nền kinh tế thì chỉ sử dụng các giải pháp điều hành từ NHNN là không đủ mà cần có sự chỉ đạo toàn diện của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp đồng bộ giữa NHNN và các bộ, ngành liên quan, sự đồng hành, hỗ trợ của các TCTD và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân người vay vốn để đáp ứng các điều kiện được cấp tín dụng. Các giải pháp cần phải hướng tới xử lí toàn diện các điểm nghẽn trong quy định pháp lí, cơ chế, thủ tục hoạt động cấp tín dụng của các TCTD, kích thích nhu cầu tín dụng một cách thực chất, lành mạnh trong khi đảm bảo nguồn cung tín dụng đầy đủ với chi phí hợp lí. Mối quan hệ giữa người đi vay (cá nhân, doanh nghiệp) và người cho vay (hệ thống các TCTD) là một mối quan hệ hữu cơ mật thiết, cộng sinh cùng phát triển. Do đó, khơi thông dòng vốn tín dụng lành mạnh, hiệu quả để tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế cũng chính là kiến tạo nền tảng phát triển tốt hơn cho hệ thống TCTD trong tương lai. Khi người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn trước mắt, ổn định và phục hồi các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng thì không ai khác, chính hệ thống các TCTD sẽ được hưởng lợi khi hoạt động cấp tín dụng trở nên hiệu quả hơn với nền tảng khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh. 
 
Năm 2024 là một năm bản lề, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả giai đoạn 2021 - 2025 mà Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra. Với tất cả trách nhiệm của một thành viên Chính phủ, NHNN sẽ bám sát chủ trương của Đảng và Quốc hội, các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành, địa phương, hệ thống TCTD, doanh nghiệp và người dân để quyết tâm thực hiện thắng lợi các giải pháp điều hành tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, đóng góp một phần vào sự phát triển thịnh vượng chung của đất nước.
 
1 IMF dự báo tăng trưởng năm 2024 của thế giới ở mức 3%. Một số tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2024: IMF (10/2023): 5,8%; WB (8/2023): 5,5%; ADB (9/2023): 6%; HSBC (10/2023): 6,3%; Fitch Ratings (11/2023): 6,3%; VinaCapital (10/2023): 6,5%.  
2 Đến cuối tháng 11/2023, dư nợ cho vay phục vụ nhu cầu đời sống tăng 2,93% so với cuối năm 2022 và chiếm 21,06% tổng dư nợ nền kinh tế (cùng kì năm 2022: tăng 20,12% và chiếm tỉ trọng 21,37%).
3 Lũy kế đến ngày 30/11/2023, đã có 175.581 lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, với tổng giá trị nợ gốc và lãi được cơ cấu là 171.083 tỉ đồng. 
4 Đến cuối tháng 10/2023, tín dụng ngành nông, lâm, thủy sản tăng 3,17%; tín dụng ngành công nghiệp xây dựng tăng 7,31%; tín dụng ngành thương mại dịch vụ tăng 7,9%.

Theo: Tạp chí Ngân hàng
    Bài cùng chuyên mục