Thương mại toàn cầu dịch chuyển, dư địa thị trường vẫn rất lớn

Nhiều ý kiến gần đây cho rằng thương mại toàn cầu đang chững lại do xung đột địa chính trị, bất ổn kinh tế và đứt gãy chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, theo các báo cáo cập nhật của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thương mại toàn cầu vẫn duy trì tăng trưởng, dù cấu trúc dòng chảy đã thay đổi đáng kể.

margin: 15px auto;" />

Thực tế cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp tận dụng được ưu đãi xuất xứ hàng hóa vẫn còn thấp. Ảnh minh họa

Thay vì tập trung vào một số trung tâm truyền thống, thương mại quốc tế đang có xu hướng phân tán, lan tỏa sang nhiều thị trường mới. Chính sự dịch chuyển này mở ra cơ hội cho các nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã đi vào thực thi sâu rộng.

Trong bức tranh đó, Liên minh châu Âu (EU) và các thị trường thuộc CPTPP nổi lên như những khu vực còn nhiều dư địa chưa được khai thác tương xứng. EU hiện là một trong những thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới, song kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực này mới chỉ đạt hơn 50 tỷ USD, chiếm khoảng 1,4% tổng nhập khẩu của EU. Khoảng trống thị phần còn rất lớn, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực tiếp cận thị trường và tận dụng ưu đãi FTA.

Đáng chú ý, mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) trung bình khoảng 12% đang tạo bất lợi cho hàng hóa Việt Nam nếu không tận dụng được các cam kết cắt giảm thuế về 0% theo EVFTA và các FTA khác. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp tận dụng được ưu đãi vẫn còn thấp. Theo ước tính, mới chỉ khoảng 25% doanh nghiệp thực sự khai thác hiệu quả các ưu đãi thuế quan từ FTA.

Điều này cho thấy vấn đề không nằm ở thiếu cơ hội, mà nằm ở khả năng chuyển hóa cam kết thành lợi ích thực tế, trong đó, xuất xứ hàng hóa là “điểm nghẽn” mang tính quyết định.

Xóa rào cản để doanh nghiệp tận dụng tối đa ưu đãi FTA

Theo ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), trong quá trình thực thi FTA, quy tắc xuất xứ hàng hóa là một trong những nội dung khó nhất đối với doanh nghiệp, nhưng lại mang tính quyết định để hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế quan.

“Rất nhiều sản phẩm của Việt Nam có thị trường, có đơn hàng, nhưng không đáp ứng được tiêu chí xuất xứ nội khối, dẫn đến không được hưởng thuế suất ưu đãi. Đây là lý do quan trọng khiến tỷ lệ tận dụng FTA còn thấp”, ông Khanh nhận định.

Thực tế cho thấy, sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài khối FTA, cùng hạn chế về năng lực quản trị chuỗi cung ứng, khiến nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ. Trong khi đó, mỗi FTA lại có hệ thống quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật và lộ trình thực thi khác nhau, đòi hỏi doanh nghiệp phải có hiểu biết đầy đủ và chiến lược bài bản.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đang đối mặt với nhiều thách thức, chủ trương đa dạng hóa thị trường càng trở nên cấp thiết. Theo ông Ngô Chung Khanh, EU cần được xác định là thị trường ưu tiên hàng đầu, bởi quy mô nhập khẩu lớn, dư địa rộng và lợi thế thuế quan rất rõ rệt nhờ EVFTA, trong khi nhiều đối thủ cạnh tranh của Việt Nam chưa có FTA với EU.

Bên cạnh đó, các thị trường CPTPP như Canada và đặc biệt là Mexico cũng mang lại lợi thế cạnh tranh vượt trội. Hiện nay, Mexico áp dụng mức thuế rất cao, thậm chí lên tới 50%, đối với nhiều đối tác châu Á chưa có FTA. Trong khi đó, hàng hóa Việt Nam nhờ CPTPP có thể hưởng mức thuế ưu đãi, tạo ra chênh lệch thuế 50–60% so với đối thủ, một lợi thế chỉ có thể phát huy nếu đáp ứng đầy đủ quy tắc xuất xứ.

Cần cách tiếp cận mới trong thực thi FTA

Theo ông Ngô Chung Khanh, những “điểm nghẽn” trong tận dụng FTA không phải là vấn đề mới, song điều quan trọng hiện nay là phải thay đổi cách tiếp cận. Thay vì dừng lại ở các hội nghị, hội thảo, tập huấn doanh nghiệp mang tính thời điểm, cần xây dựng mô hình hỗ trợ doanh nghiệp mang tính hệ thống, dài hạn và có chiều sâu.

Hàng hóa Việt Nam nhờ CPTPP có thể hưởng mức thuế ưu đãi, tạo ra chênh lệch thuế 50–60% so với đối thủ, một lợi thế chỉ có thể phát huy nếu đáp ứng đầy đủ quy tắc xuất xứ. Ảnh minh họa

“Sau mỗi hội nghị, cần có ngay một kế hoạch hành động cụ thể: doanh nghiệp phải làm gì, địa phương phải làm gì, bộ, ngành Trung ương phải làm gì; thậm chí phải cụ thể hóa theo từng ngành hàng như dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, cơ khí – chế tạo”, ông Khanh nhấn mạnh.

Việc lượng hóa mục tiêu theo từng thị trường cũng là yêu cầu bắt buộc. Chẳng hạn, nếu đặt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 7–10% từ năm 2025, cần xác định rõ EU đóng góp bao nhiêu, Canada bao nhiêu, Mexico bao nhiêu; mỗi ngành hàng phải tăng trưởng ở mức nào và cần tháo gỡ những rào cản gì về xuất xứ, tiêu chuẩn và chuỗi cung ứng.

Liên quan đến đề xuất thành lập Trung tâm FTA tại Hà Nội, ông Ngô Chung Khanh đánh giá đây là sáng kiến rất xác đáng, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. Dù Bộ Công Thương đã có các đơn vị chuyên trách ở cấp Trung ương, song ở cấp địa phương, đặc biệt là các đô thị lớn nhu cầu hỗ trợ chuyên sâu, sát thực tế là rất lớn.

“Nếu Hà Nội thành lập được Trung tâm FTA cấp thành phố và phối hợp chặt chẽ với Bộ, đây sẽ là mô hình tích cực, hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp tiếp cận thông tin, tháo gỡ vướng mắc và nâng cao hiệu quả tận dụng FTA”, ông Khanh khẳng định.

Bên cạnh đó, việc xây dựng bộ chỉ số đánh giá doanh nghiệp trong thực thi FTA, gắn với cơ chế vinh danh và lựa chọn đối tượng hỗ trợ trọng tâm, cũng được xem là hướng đi cần thiết. Theo ông Ngô Chung Khanh, đây sẽ là nền tảng quan trọng để thiết kế các chương trình hỗ trợ “đo ni đóng giày” theo từng FTA, từng ngành hàng và từng nhóm doanh nghiệp.

Trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia nhiều FTA thế hệ mới, xuất xứ hàng hóa không chỉ là điều kiện kỹ thuật, mà đã trở thành “chìa khóa” quyết định khả năng tận dụng ưu đãi, mở rộng thị trường và nâng cao vị thế hàng Việt trong chuỗi thương mại toàn cầu.

Sở hữu mạng lưới 17 FTA với 65 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam đang có lợi thế thuế quan hiếm có, tuy nhiên, tỷ lệ tận dụng ưu đãi xuất xứ hàng hóa của các doanh nghiệp vẫn ở mức thấp.

Nguyễn Hạnh