Xuất nhập khẩu hàng hóa sang khu vực châu Âu, châu Mỹ tăng trưởng 9,4%

(Banker.vn) Năm 2022, xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước thị trường châu Âu - châu Mỹ tăng trưởng khá cao, đóng góp quan trọng vào thặng dư thương mại của Việt Nam.
Nguồn thu xuất nhập khẩu giảm sâu trên 40%

15 mặt hàng xuất khẩu sang khu vực Âu Mỹ có kim ngạch trên một tỷ USD

Báo cáo tại Hội nghị Thúc đẩy sản xuất tiêu dùng trong nước và Mở rộng thị trường xuất khẩu ngày 3/2, Vụ trưởng Vụ thị trường châu Âu - châu Mỹ Tạ Hoàng Linh cho biết, năm 2022 là năm kinh tế thế giới nói chung và khu vực châu Âu - châu Mỹ nói riêng gặp rất nhiều khó khăn và bất ổn. Tuy nhiên, thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và các nước thị trường châu Âu - châu Mỹ về cơ bản vẫn duy trì mức tăng trưởng khá cao đóng góp quan trọng vào thặng dư thương mại của Việt Nam trong năm 2022.

Cụ thể, năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và khu vực châu Âu, châu Mỹ chứng kiến mức tăng trưởng khoảng 9,4% so với năm 2021, đạt hơn 230 tỷ USD.

Trong đó, xuất khẩu đạt 184 tỷ USD, tăng 12,3% và chiếm tỷ trọng gần 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2022. Nhập khẩu đạt hơn 46 tỷ USD, giảm 1% và chiếm tỷ trọng 12,8% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Thặng dư thương mại với thị trường này đạt tới 138 tỷ USD, giúp cán cân thương mại của Việt Nam đạt mức thặng dư 12,4 tỷ USD.

Xuất nhập khẩu hàng hóa sang khu vực châu Âu, châu Mỹ tăng trưởng 9,4%
Vụ trưởng Vụ thị trường châu Âu - châu Mỹ Tạ Hoàng Linh phát biểu tại hội nghị

Kết quả tích cực như trên đến từ sự tăng trưởng xuất khẩu tích cực ở những thị trường xuất khẩu trọng điểm như: Hoa Kỳ đạt 109,4 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2021; EU27 đạt 46,8 tỷ USD, tăng 16,7%; các nước CPTPP ở châu Mỹ đạt 13,1 tỷ USD, tăng 8,7%; Anh đạt gần 6,1 tỷ USD, tăng 5,2%.

Khoảng 15 mặt hàng xuất khẩu sang khu vực Âu Mỹ có kim ngạch trên một tỷ USD trong đó một số mặt hàng tăng trưởng hai con số: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 28,6 tỷ USD, tăng 18,5% so với năm 2021; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 25,1 tỷ USD, tăng 14,2%; hàng dệt may đạt hơn 24,6 tỷ USD, tăng 14%; giày dép các loại đạt hơn 18 tỷ USD, tăng 36%; thủy sản đạt 4,45 tỷ USD, tăng trưởng 10,4%; cà phê đạt 2,2 tỷ USD, tăng 42,5% v.v...

"Hoạt động của Bộ Công Thương hỗ trợ tích cực cho xuất nhập khẩu của Việt Nam không chỉ ở phương diện hỗ trợ khai thác thị trường truyền thống, mở rộng thị trường/sản phẩm mới, tiềm năng mà còn ở phương diện bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế đồng thời hạn chế tác động tiêu cực hay dỡ bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan" - ông Tạ Hoàng Linh nhấn mạnh.

Điển hình như việc phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đưa Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong xử lý 2 vụ việc điều tra theo Mục 301 về vấn đề định giá thấp tiền tệ và sử dụng gỗ bất hợp pháp của Việt Nam, góp phần vào việc đấu tranh để phía Hoa Kỳ không ban hành bất kỳ biện pháp hạn chế thương mại nào đối với Việt Nam; xử lý các vụ việc liên quan tới các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm hoặc bị lừa đảo (vụ xuất khẩu điều) tại thị trường EU…

Nhiều giải pháp vượt thách thức

Bước sang năm 2023, hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với thị trường châu Âu - châu Mỹ sẽ có những điều kiện thuận lợi và đối mặt với những thách thức. Cụ thể, một số thuận lợi như, các hiệp định thương mại tự do (FTA) đang có với các đối tác thị trường châu Âu - châu Mỹ (CPTPP, Việt Nam - Chi lê, EVFTA, VN-EAEU FTA, UKFTA, v.v...) tiếp tục có tác động tích cực đối với thương mại, đầu tư và đặc biệt là xuất khẩu của Việt Nam;

Thị trường xuất khẩu chủ lực ở các nước khu vực châu Âu tuy có thể tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn duy trì ở mức tăng trưởng dương trừ Nga;

Việc các nước phương tây (Âu Mỹ) duy trì hoặc tăng thêm lệnh trừng phạt với Nga; tiếp tục chiến lược kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc dẫn đến việc các nước này sẽ tăng cường tìm kiếm nguồn hàng thay thế, địa bàn đầu tư thay thế trong khi Việt Nam có thể là một lựa chọn. Điều này đặc biệt đúng khi các nước đều đang chú trọng vấn đề an ninh lương thực, sự ổn định của chuỗi cung ứng trong khi Việt Nam gặt hái nhiều thành công trong sản xuất xuất khẩu nông lâm thủy sản và nổi bật về sự ổn định kinh tế;

Cam kết của Việt Nam tại COP26, đặc biệt là cam kết đưa mức phát thải ròng về "0" vào giữa thế kỷ được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việc hướng tới sản xuất sản phẩm xanh, bảo vệ môi trường sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai khi nhu cầu các sản phẩm này ở các nước khu vực châu Âu - châu Mỹ ngày một tăng và các chính sách bảo vệ môi trường tại các nước ngày một chú trọng. Việt Nam sẽ nhận càng ngày càng nhiều hỗ trợ của các nước phát triển trong việc chuyển đổi năng lượng, thay đổi nền sản xuất hướng tới kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững trong cả khâu sản xuất lẫn tiêu dùng.

Bên cạnh những thuận lợi, xuất nhập khẩu Việt Nam lại phải đối mặt với khó khăn trong năm 2023, cụ thể: Nguy cơ suy thoái kinh tế, lạm phát và lãi suất tăng khiến nhu cầu tiêu dùng giảm tại các quốc gia trên thế giới trong đó có khu vực châu Âu - châu Mỹ; xung đột Nga - Ucraina tiếp tục ảnh hương tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu; chính sách bảo hộ của các nước ngày một tăng; việc các nước phát triển càng ngày càng quan tâm nhiều đến các vấn đề an toàn cho người tiêu dùng, phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu sẽ là tiền đề để dựng lên những tiêu chuẩn mới, quy định mới liên quan đến nguyên liệu, lao động, môi trường cho các sản phẩm nhập khẩu; Trung Quốc mở cửa trở lại cộng với việc một số các địa bàn xuất khẩu trọng điểm nới lỏng hơn các biện pháp hạn chế Trung Quốc trước thềm bầu cử (để xoa dịu các vấn đề nội bộ) làm gia tăng sự cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu của Việt Nam v.v…

Theo đó, với mục tiêu tận dụng tối đa thuận lợi và giảm thiểu tác động của các thách thức trên đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ kiến nghị Bộ Công Thương cần tập trung triển khai các nhóm giải pháp về thị trường và doanh nghiệp trong năm 2023 cụ thể như sau:

Về thị trường: Theo dõi sát tình hình thị trường, tham mưu, đề xuất các khung khổ hợp tác, các giải pháp phát triển thị trường truyền thống, đồng thời đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.

Tiếp tục nắm bắt thông tin về tình hình, biến động về chính trị, chính sách trong khu vực và trên thế giới ảnh hưởng tới thương mại với Việt Nam, từ đó đưa ra cảnh báo và phản ứng kịp thời. Tăng cường cung cấp thông tin cập nhật về biến động và xu hướng của các thị trường xuất/nhập khẩu lớn, kèm theo các đánh giá về cơ hội, thách thức để doanh nghiệp có các kế hoạch thích ứng phù hợp.

Tiếp tục chú trọng công tác triển khai thực hiện các FTA nói chung, nhất là các FTA thế hệ mới như Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA. Mục tiêu là không chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp nắm được nội dung cam kết CPTPP, EVFTA, UKVFTA mà còn vận dụng và phát huy có hiệu quả ưu đãi của hiệp định, từ đó tận dụng tối đa các cơ hội và hạn chế các thách thức đặt ra từ những hiệp định này.

Đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa ngành hàng để giảm bớt sự phụ thuộc vào các thị trường/ngành hàng truyển thống. Hiện nay các thị trường như Hoa Kỳ, Đức, Anh, Hà Lan... chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu.

Tuy nhiên những thị trường khu vực bắc Âu, đông Âu, Mỹ Latinh đang có tốc độ tăng trường cao tuy nhỏ, nhưng còn nhiều dư địa khai thác đồng thời cũng đang đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đáng ghi nhận trong những năm trở lại đây; điển hình như: Ba Lan (11%), CH Séc (14,6%), Đan Mạch (40%), Rumani (tăng 52,6%), Slovenia (14,1%), Latvia (20,2%), Bungary (31%)…

Nếu có hướng tiếp cận và thâm nhập bài bản, phù hợp, hàng hóa Việt Nam có thể phát huy được lợi thế cạnh tranh, gia tăng hiện diện tại các thị trường này. Đồng thời cũng cần gia tăng, đa dạng hóa những sản phẩm mũi nhọn trong xuất khẩu, đẩy mạnh trao đổi các nhóm hàng có lợi thế cạnh tranh, có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao, chế biến sâu, các sản phẩm kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…

Triển khai hiệu quả các cơ chế hợp tác của Ủy ban liên Chính phủ/hỗn hợp; hỗ trợ quản lý và chỉ đạo hệ thống Thương vụ hoạt động hiệu quả, hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại và đầu tư…

Về hỗ trợ doanh nghiệp: cùng với hệ thống thương vụ đẩy mạnh công tác hỗ trợ doanh nghiệp khai thác tốt thị trường và bảo về quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp

Công tác hỗ trợ doanh nghiệp được triển khai theo hướng cụ thể và sâu sát theo từng thị trường và ngành hàng, tập trung vào: Tăng cường nhận thức của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu về các hướng tiếp cận kinh tế tuần hoàn, các yếu tố về sản xuất và tiêu dùng bền vững với mục đích thay đổi dần tư duy sản xuất của doanh nghiệp, khuyến khích áp dụng công nghệ, nguyên vật liệu, sử dụng năng lượng tái tạo đáp ứng tiêu chuẩn và quy định ngày càng khắt khe của các nước phát triển nhất là các nước đã có cam kết tại COP 26; khắc phục những hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay như: thông tin thị trường, khả năng tự chủ nguyên phụ liệu, năng lực sản xuất để đảm bảo yêu cầu thị trường, xây dựng thương hiệu…

Tăng cường mối liên hệ qua các nền tảng trực tuyến giữa doanh nghiệp và hệ thống Thương vụ để phát huy vai trò của Thương vụ tại địa bàn đồng thời bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp Việt Nam.

Tận dụng các hãng phân phối là đối tác trong “Đề án xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối ở ngoài nước”, tận dụng nguồn lực các chuyên gia nước ngoài và các doanh nghiệp Việt kiều (thông qua hoạt động với cộng đồng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài), huy động hệ thống ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam chuẩn hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu hay từng bước xây dựng thương hiệu của mình.

Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách điều hành tín dụng sao cho nguồn vốn tín dụng chảy vào khu vực sản xuất và xuất khẩu để tiếp sức cho doanh nghiệp hiện nay đang vô cùng khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng.

PV

Theo: Báo Công Thương