Theo thống kê của Bộ Công Thương, trong 11 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu phân bón các loại của Việt Nam sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) đạt 186,9 triệu USD. Con số này cho thấy xuất xứ hàng hóa đang trở thành “tấm vé thông hành” quan trọng, giúp doanh nghiệp phân bón tiếp cận thị trường quốc tế thuận lợi hơn, đồng thời tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết.
Đáng chú ý, trong cơ cấu C/O được sử dụng, C/O form D – áp dụng cho thương mại nội khối ASEAN theo Hiệp định ATIGA chiếm tỷ trọng lớn nhất với kim ngạch đạt 59 triệu USD. Việc tận dụng tốt ưu đãi thuế quan trong khu vực, với mức thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng giảm về 0%, tiếp tục giúp phân bón Việt Nam giữ được lợi thế cạnh tranh tại các thị trường lân cận.
margin: 15px auto;" />Trong 11 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu phân bón các loại của Việt Nam sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) đạt 186,9 triệu USD (Ảnh: TTXVN)
Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu phân bón sử dụng C/O form B – chứng từ chứng minh xuất xứ không ưu đãi – đạt 42 triệu USD. Đây là loại C/O truyền thống, phản ánh năng lực sản xuất trong nước và mức độ chủ động của doanh nghiệp trong việc đáp ứng yêu cầu về nguồn gốc hàng hóa, ngay cả với những thị trường chưa có ưu đãi thuế quan.
Ở nhóm C/O ưu đãi theo FTA song phương và đa phương, C/O form VK cấp cho hàng hóa xuất khẩu sang Hàn Quốc theo Hiệp định VKFTA ghi nhận kim ngạch 42,7 triệu USD. Việc hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu tại thị trường Hàn Quốc đã góp phần giúp phân bón Việt Nam mở rộng thị phần, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các nhà cung cấp trong khu vực.
Cùng với đó, xuất khẩu phân bón sang Lào sử dụng C/O form S đạt 7,7 triệu USD. Dù quy mô chưa lớn, nhưng đây là thị trường ổn định, có mức độ gắn kết cao, cho thấy hiệu quả của Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Lào trong việc hỗ trợ doanh nghiệp hai nước giảm chi phí thuế quan và thúc đẩy trao đổi hàng hóa.
Đối với các hiệp định thương mại thế hệ mới và khu vực rộng lớn, kim ngạch xuất khẩu phân bón sử dụng C/O form AANZ đạt 15,7 triệu USD, tận dụng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định ASEAN – Australia – New Zealand. Trong khi đó, xuất khẩu sử dụng C/O form RCEP đạt 1,45 triệu USD, phản ánh bước đi ban đầu của doanh nghiệp Việt Nam trong việc khai thác không gian thị trường rộng lớn với các thủ tục hải quan được đơn giản hóa.
Riêng với thị trường Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu phân bón sử dụng C/O form E theo Hiệp định ACFTA đạt 2,1 triệu USD. Dù còn khiêm tốn, nhưng đây là thị trường tiềm năng, đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng nghiêm ngặt các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng và xuất xứ. Trong khi đó, xuất khẩu sang EU sử dụng C/O form EUR.1 theo Hiệp định EVFTA đạt 732 nghìn USD, cho thấy dư địa mở rộng vẫn còn lớn, nhất là khi doanh nghiệp đáp ứng tốt các tiêu chuẩn xanh và bền vững.
Không chỉ chịu tác động từ chính sách thương mại, triển vọng xuất khẩu phân bón thời gian tới còn gắn chặt với diễn biến thị trường thế giới. Theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam, giá phân bón toàn cầu hiện duy trì ở vùng hợp lý, trong đó giá kali và DAP có xu hướng tăng mạnh. Các yếu tố như giá năng lượng thấp, căng thẳng thương mại, các biện pháp hạn chế nhập khẩu của EU đối với phân bón từ Nga và Belarus, cùng rủi ro địa chính trị tại Trung Đông đang tác động đáng kể đến cung – cầu toàn cầu giai đoạn 2025 – 2026.
Ở góc độ nhu cầu, Hiệp hội Phân bón Quốc tế (IFA) dự báo tiêu thụ phân bón toàn cầu năm 2025 tăng 2,2%, đạt 205 triệu tấn, vượt mức kỷ lục 201,5 triệu tấn của năm 2020. Dù tốc độ tăng trưởng được dự báo chậm lại từ năm 2026, nhưng giai đoạn hiện nay vẫn được đánh giá là tích cực, mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tăng tốc xuất khẩu trong ngắn hạn.
Trong bối cảnh đó, việc chủ động nắm vững quy tắc xuất xứ, lựa chọn đúng loại C/O phù hợp với từng thị trường và FTA không chỉ giúp doanh nghiệp giảm chi phí thuế quan, mà còn nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của phân bón Việt Nam trên thị trường quốc tế.

