Sản xuất công nghiệp chậm lại
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) chỉ tăng 0,1% (so với cùng kỳ) trong tháng 5 năm 2023, giảm từ mức 0,5% (so với cùng kỳ) trong tháng 4. IIP suy yếu phần lớn là do sản xuất bị thu hẹp trên diện rộng - bao gồm may mặc, giày dép, gỗ và giấy, điện tử, máy móc, xe có động cơ và đồ nội thất - phản ánh tình trạng xuất khẩu tiếp tục suy yếu. PMI của Việt Nam vẫn nằm trong vùng thu hẹp (dưới mức 50) trong tháng thứ ba liên tiếp, giảm xuống 45,3 từ 46,7 trong tháng 4.
Tăng trưởng doanh thu bán lẻ vẫn mạnh và ở mức tương đương so với thời kỳ trước COVID-19
Doanh thu bán lẻ tiếp tục tăng ở mức 11,5% (so với cùng kỳ) trong tháng 5 năm 2023, tương đương với tốc độ tăng trưởng trong hai tháng trước đó và so với giai đoạn trước đại dịch. Doanh thu bán hàng hóa được cải thiện từ 9,7% (so với cùng kỳ) trong tháng 4 lên 10,9% (so với cùng kỳ) trong tháng 5.
Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng doanh thu của dịch vụ giảm từ 19,2% (so cùng kỳ) trong tháng 4 xuống còn 7,6% (so với cùng kỳ) trong tháng 5.
Sự suy giảm này chủ yếu là do sự tăng trưởng chậm lại của các dịch vụ du lịch (40,3% so với cùng kỳ trong tháng 5, so với 86% so với cùng kỳ trong tháng 4) và dịch vụ khách sạn (12,1% so với cùng kỳ trong tháng 5, so với 21,1% so với cùng kỳ trong tháng 4). Khoảng 4,6 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam kể từ tháng 1/2023, tăng 11,6% so với cùng kỳ 5 tháng năm 2022, nhưng thấp hơn 37% so với thời kỳ trước đại dịch.
Thương mại hàng hóa vẫn nằm trong vùng suy giảm
Mặc dù xuất khẩu hàng hóa đã tăng 4,3% trong tháng 5 so với tháng 4, nhưng vẫn thấp hơn 6% so với một năm trước do nhu cầu bên ngoài yếu. Hầu hết tất cả các lĩnh vực sản xuất chính tiếp tục bị thu hẹp xuất khẩu trong tháng 5.
Xuất khẩu hàng may mặc và giày dép (các ngành sản xuất thâm dụng lao động chính của Việt Nam) lần lượt giảm 16,7% và 5,4% (so với cùng kỳ), trong khi xuất khẩu máy tính, máy móc và điện thoại thông minh (các ngành sản xuất công nghệ chủ chốt của Việt Nam) tương ứng giảm 11,4%, 6,4% và 5,2% (so với cùng kỳ năm 2022).
Nhập khẩu giảm 18,4% (so với cùng kỳ) trong tháng 5/2023, so với mức giảm 23,1% (so với cùng kỳ) trong tháng 4, phản ánh nhu cầu đối với đầu vào nước ngoài của cả doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước tiếp tục giảm. Sự sụt giảm chủ yếu là do nhập khẩu nguyên liệu dệt may giảm (-37,5%, so với cùng kỳ), điện tử và linh kiện máy tính (-10%, so với cùng kỳ), máy móc (-17,3%, so với cùng kỳ) và điện thoại thông minh (-56%, so với cùng kỳ).
"Sự sụt giảm liên tục của các yếu tố đầu vào nhập khẩu có thể cho thấy khu vực doanh nghiệp dự đoán hoạt động xuất khẩu sẽ còn suy yếu trong những tháng tới", Báo cáo của WB cho biết.
Dòng vốn FDI chậm lại
Cam kết FDI giảm xuống còn 1,98 tỷ USD vào tháng 5/2023, giảm 42,3% so với tháng 4 khi những bất ổn toàn cầu tiếp tục có tác động đến niềm tin của nhà đầu tư. Cam kết FDI lũy kế 5 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt 10,9 tỷ USD, thấp hơn 7,3% so với cùng kỳ năm 2022. Lĩnh vực sản xuất chế biến chế tạo vẫn là lĩnh vực cam kết FDI chính.
Vốn FDI giải ngân đạt 1,8 tỷ USD vào tháng 5/2023, cải thiện nhẹ so với tháng 4 và tương đương với mức cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, vốn FDI giải ngân lũy kế từ tháng 1 đến tháng 5/2023 đạt 7,65 tỷ USD, tương đương với cùng kỳ năm 2022.
Lạm phát chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát cơ bản tiếp tục giảm nhẹ
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tiếp tục có xu hướng giảm trong tháng thứ tư liên tiếp, giảm từ 2,8% trong tháng 4 xuống 2,4% trong tháng 5. Giá năng lượng toàn cầu giảm đã giúp giá nhiên liệu và xăng dầu trong nước giảm, dẫn đến đóng góp âm (-0,9%) của ngành giao thông vào lạm phát CPI.
Trong khi đó, lương thực và thực phẩm, cũng như nhà ở và vật liệu xây dựng là những nguyên nhân chính gây ra lạm phát CPI, tăng lần lượt là 3,6% (so cùng kỳ) và 6,4% (so cùng kỳ).
Lạm phát cơ bản, loại trừ thực phẩm, năng lượng và các mặt hàng có giá do chính phủ quản lý như dịch vụ giáo dục và y tế, vẫn ở mức cao (4,5% so với cùng kỳ) trong tháng 5 so với tháng 4 (4,6% so với cùng kỳ), cho thấy việc tăng giá nhiên liệu vào năm 2022 đã ảnh hưởng đến cơ cấu chi phí của nền kinh tế, bao gồm cả việc làm tăng chi phí vật liệu xây dựng.
Tăng chi tiêu công khiến cân đối ngân sách tháng 5 thâm hụt lớn
Cân đối ngân sách hàng tháng ghi nhận mức thâm hụt lớn khoảng 2 tỷ USD trong tháng 5 năm 2023. Thu ngân sách tiếp tục giảm 35,8% (so cùng kỳ) vào tháng 5, so với mức giảm 24,7% (so với cùng kỳ) vào tháng 4 năm 2023, phản ánh tác động một lần do nền cơ sở cao - các khoản thu cao từ nguồn liên quan đến đất, bất động sản và thu thuế giá trị gia tăng cùng thời điểm năm 2022 sau khi nền kinh tế mở cửa sau đại dịch. Trong khi đó, chi tiêu công tăng 27,8% (so với cùng kỳ) trong tháng 5 so với mức tăng 13,8% (so với cùng kỳ) được ghi nhận trong tháng 4.
Trong 5 tháng đầu năm 2023, Chính phủ đã hoàn thành 47,5% kế hoạch thu ngân sách hàng năm và 31,5% kế hoạch chi ngân sách, dẫn đến thặng dư ngân sách khoảng 3,5 tỷ USD trong giai đoạn này. Lũy kế giải ngân vốn đầu tư công từ tháng 1-5/2023 đạt 22,2% so với dự toán được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (707.400 tỷ đồng) cho năm tài chính 2023, tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm 2022.
Tính đến hết tháng 5, Kho bạc Nhà nước đã phát hành khoảng 163.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, chiếm 25,3% tổng kế hoạch vay dự kiến cho năm 2023. Khoảng 90% trái phiếu phát hành có kỳ hạn dài (10-15 năm).
WB đánh giá, nhu cầu bên ngoài tiếp tục yếu và những bất ổn toàn cầu đang có tác động bất lợi đến nền kinh tế Việt Nam, dẫn đến xuất khẩu và nhập khẩu bị thu hẹp, và sản xuất công nghiệp chậm lại. Trong khi tiêu dùng trong nước (thể hiện qua doanh thu bán lẻ) vẫn khá vững và có thể so sánh với mức tăng trước đại dịch, tăng trưởng tín dụng tiếp tục chậm lại, phản ánh nhu cầu tín dụng yếu. Trường hợp điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt hơn, nhu cầu bên ngoài có thể suy yếu hơn nữa.
Bên cạnh đó, miền Bắc bắt đầu bị thiếu điện tiêu dùng và sản xuất vào cuối tháng 5, nếu không được giải quyết kịp thời, WB cho rằng có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Mặt khác, khi lạm phát có dấu hiệu giảm dần, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã nới lỏng các chính sách tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế. Tuy nhiên, WB khuyến nghị, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ sẽ cần theo dõi chặt chẽ sự khác biệt trong xu hướng điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam so với các nước khác, điều mà có thể tạo ra áp lực lên dòng vốn và tỷ giá.
Ngoài ra, WB cũng nhận định, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công (bao gồm cả các Chương trình mục tiêu quốc gia) sẽ hỗ trợ tổng cầu và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Đồng thời, ưu tiên đầu tư vào công nghệ kỹ thuật số và công nghệ xanh, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực sẽ giúp thúc đẩy sự phát triển bền vững lâu dài.
Trong khi hoạt động xuất khẩu chế biến, chế tạo chậm lại và việc làm trong lĩnh vực sản xuất bị ảnh hưởng, điều quan trọng là phải nhanh chóng xác định và hỗ trợ những người lao động và các hộ gia đình bị ảnh hưởng thông qua hệ thống bảo trợ xã hội. Hợp lý hóa các thủ tục hành chính và loại bỏ các rào cản pháp lý sẽ giúp thúc đẩy các hoạt động kinh doanh và đầu tư cần thiết cho tăng trưởng kinh tế.
Q.L
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|