Ngày 03/11/2023, tại Hà Nội, Tạp chí Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phối hợp với Công đoàn Ngân hàng Việt Nam tổ chức Tọa đàm với chủ đề “Vai trò của tổ chức công đoàn đối với xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số”.
Tới dự Tọa đàm có TS. Đào Minh Tú, Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng, Phó Thống đốc Thường trực NHNN, Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn Ngân hàng Việt Nam; bà Nguyễn Khánh Chi - Phó Chủ tịch Thường trực Công đoàn Ngân hàng Việt Nam; bà Nguyễn Thị Thanh Bình, Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Ngân hàng; đại diện Ban Thường vụ, Ban Chấp hành, các Ban thuộc Công đoàn Ngân hàng Việt Nam, Công đoàn NHNN Trung ương; Ban Lãnh đạo, Ban Chấp hành Công đoàn các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN; Học viện Ngân hàng; các lãnh đạo, đại diện tổ chức công đoàn của các tổ chức tín dụng; các chuyên gia, nhà khoa học đến từ các trường đại học, viện nghiên cứu...
Phó Thống đốc Thường trực Đào Minh Tú phát biểu khai mạc Tọa đàm
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Phó Thống đốc Thường trực NHNN, Chủ tịch Công đoàn Ngân hàng Việt Nam Đào Minh Tú nhấn mạnh: Chủ đề của Tọa đàm “Vai trò của tổ chức công đoàn đối với xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số” có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Ban Lãnh đạo NHNN luôn coi trọng vấn đề văn hóa kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Ngành Ngân hàng là ngành kinh tế tổng hợp, do vậy, vấn đề ứng xử, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng là rất quan trọng. Đặc thù ngành Ngân hàng là kinh doanh trên niềm tin, được xây dựng trên đạo đức đã được xã hội quy định nên cần phải chú trọng văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp. Đây không chỉ là đặc thù mang sắc thái riêng của loại hình ngành, nghề kinh doanh tín dụng mà còn tạo nên thành công, hiệu quả kinh doanh của ngành Ngân hàng nói chung và kinh doanh dịch vụ tiền tệ nói riêng. Ngành Ngân hàng đã trải qua 72 năm thành lập và phát triển, trong quá trình đó, văn hóa ứng xử, văn hóa doanh nghiệp trong ngành Ngân hàng đều hướng đến sự phát triển chung trong văn hóa kinh tế.
Đã có rất nhiều quy tắc, quy chuẩn đặt ra với cán bộ ngân hàng và trong quá trình thực hiện đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Hầu như các cấp, các đơn vị trong Ngành đều quan tâm đến vấn đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Các cơ quan, đơn vị đã xây dựng quy chuẩn văn hóa ứng xử riêng phù hợp với đặc thù quản lí của đơn vị mình, trong đó, các ngân hàng thương mại đã xây dựng bộ quy tắc văn hóa ứng xử thể hiện những đặc thù, nét văn hóa riêng của ngân hàng đó.
Lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh khó nhất trong các lĩnh vực kinh doanh. Để phát triển kinh doanh bền vững, ổn định, bền bỉ và lâu dài không thể không nói tới văn hóa kinh doanh gắn với chuẩn mực đạo đức của cán bộ ngân hàng. Có những lúc, những nơi, có những ngân hàng, doanh nghiệp, chi nhánh chưa quan tâm đến văn hóa doanh nghiệp, vì thế nó là nguyên nhân dẫn đến những vi phạm tại một số ngân hàng thời gian gần đây.
Người cán bộ ngân hàng có văn hóa ứng xử, có năng lực, đạo đức nghề nghiệp tốt thì khách hàng sẽ tin tưởng và ngân hàng sẽ thuận lợi trong hoạt động kinh doanh; ngược lại, ngân hàng dễ gặp bất lợi hoặc rủi ro. Do vậy, cần phải làm tốt hơn, rõ nét hơn văn hóa doanh nghiệp, văn hóa trong hoạt động ngân hàng là như thế nào, đạt tiêu chuẩn gì so với đạo đức văn hóa xã hội, đạo đức cán bộ, đạo đức kinh doanh và cần phải tạo nên nét văn hóa riêng trong lĩnh vực tín dụng, tiền tệ, ngân hàng.
Trong thời đại của công nghệ số, số hóa được nhắc đến trong tất cả các lĩnh vực, đó là thời đại, là xu hướng phát triển của xã hội, do đó, xây dựng văn hóa doanh nghiệp phải nằm trong xu hướng chuyển đổi số. Trong bối cảnh đó, vai trò của tổ chức công đoàn là vô cùng cần thiết. Công đoàn Ngân hàng Việt Nam đã xác định, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được định hướng trong Nghị quyết Đại hội VII nhiệm kì 2023 - 2028, đó là: “Xây dựng hình ảnh người cán bộ ngân hàng có đạo đức tốt, nghiệp vụ giỏi", "Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, triển khai đề án chuyển đổi số trong tổ chức công đoàn" với nội dung đột phá là "Chuyển đổi số toàn diện trong hoạt động công đoàn, ưu tiên lĩnh vực quản lí đoàn viên và tài chính công đoàn".
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đề nghị các diễn giả, khách mời tham dự Tọa đàm cùng tập trung thảo luận, làm rõ 02 nội dung: (i) Xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh; (ii) Xây dựng uy tín, tạo thêm niềm tin của công chúng với ngành Ngân hàng.
Văn hóa doanh nghiệp là những giá trị, niềm tin, hình thức mà mọi người trong doanh nghiệp cùng công nhận và suy nghĩ, nói, hành động như một thói quen và là phần quyết định đến sự thành, bại về lâu dài của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp không tự nhiên có mà do chính các thành viên, con người trong doanh nghiệp xây dựng và thực hiện, đó là chính là đối tượng hoạt động của công đoàn.
Với xu thế chuyển đổi số, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, ngành Ngân hàng còn phải đối diện với những thách thức, khó khăn. Trong đó, nguồn nhân lực trong Ngành không tránh khỏi những tác động của số hóa xuất phát từ những vấn đề kinh tế vĩ mô, như sự phát triển của thị trường lao động, việc làm, tiền lương… Việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ cán bộ, người lao động, song song với việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp là nhiệm vụ cấp bách trong bối cảnh hiện nay, các cấp Công đoàn trong Ngành cần coi đây là nhiệm vụ quan trọng để vận động cán bộ, đảng viên, người lao động nhận thức rõ thời cơ, nguy cơ, đồng thời tạo động lực làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong Ngành nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ông Trần Hồng Tuấn, Phó Chủ tịch Công đoàn Ngân hàng Việt Nam trình bày tham luận
Tại Tọa đàm, ông Trần Hồng Tuấn - Phó Chủ tịch Công đoàn Ngân hàng Việt Nam trình bày tham luận với chủ đề “Vai trò của tổ chức công đoàn đối với xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số” nhận định, trong kỉ nguyên chuyển đổi số, nếu không tiến lên, không lĩnh hội và hòa nhập với xu thế công nghệ thì đó là đang tụt hậu, do đó, chuyển đổi của toàn xã hội và của chính mỗi đơn vị trong ngành Ngân hàng là xu hướng, là hướng đi tất yếu và khách quan. Trong những năm gần đây, ngành Ngân hàng đã có nhiều thay đổi đáng kể từ việc ứng dụng chuyển đổi số. Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng không chỉ là ứng dụng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo mà còn là sự chuyển đổi toàn bộ mô hình, chiến lược và văn hóa kinh doanh, cách thức hoạt động của ngân hàng trên nền tảng đổi mới công nghệ. Vì văn hóa doanh nghiệp là “tài sản vô hình” của mỗi doanh nghiệp, được xây dựng bởi người lao động và tác động trực tiếp đến người lao động. Khi đó, tổ chức công đoàn các cấp thực sự có vai trò quan trọng, góp phần xây dựng văn hóa doanh nghiệp và văn hóa ngành Ngân hàng phát triển bền vững.
Theo ông Trần Hồng Tuấn, vấn đề “văn hóa doanh nghiệp” hiện nay không còn là vấn đề quá mới mẻ trong hoạt động kinh doanh. Giá trị “văn hóa doanh nghiệp” của các ngân hàng khác nhau cũng được định giá khác nhau trên cơ sở hàng loạt các tiêu chí chung. Các tổ chức tín dụng trong ngành Ngân hàng cũng đã triển khai “văn hóa doanh nghiệp” khá toàn diện, đưa “văn hóa doanh nghiệp” là một trong những nội dung không thể thiếu trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu, nhất là trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay, từ bộ nhận diện, giá trị cốt lõi, nguyên tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, trang phục... Hầu hết các đơn vị đều có các văn bản quy định riêng về văn hóa doanh nghiệp, như: Quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp và xây dựng “văn hóa công sở” của NHNN; Cẩm nang văn hóa Agribank; Quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử BIDV; Sổ tay văn hóa VietinBank; Sổ tay văn hóa Vietcombank; Bộ Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của LienVietPostBank; Bộ Quy ước văn hóa ứng xử SeaBank; Bộ chuẩn mực đạo đức SHB… Ngoài ra, một số đơn vị lựa chọn “lồng ghép” các tiêu chuẩn văn hóa nghề nghiệp trong nội quy, quy định hoặc hợp đồng lao động của đơn vị.
Giá trị của “văn hóa doanh nghiệp” không chỉ được xây dựng bởi các yếu tố bên ngoài các quy định của doanh nghiệp về hình ảnh thương hiệu, bộ nhận diện, văn hóa ứng xử…, mà “văn hóa doanh nghiệp” còn bao gồm cả các giá trị biểu hiện bên trong như: Năng suất lao động, sự đoàn kết, gắn bó nội bộ, vai trò của người lãnh đạo, của nhân viên, giá trị truyền thống tốt đẹp, niềm tự hào của nhân viên về doanh nghiệp mình… Các yếu tố bên ngoài và bên trong đó được hình thành và phát triển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, xoay quanh vai trò của con người (người lãnh đạo, người lao động) và đây cũng chính là đối tượng và là mục tiêu của hoạt động công đoàn. Bởi vậy, tổ chức công đoàn trong các đơn vị đóng vai trò quan trọng để duy trì, khơi dậy và phát huy các giá trị đó.
Trong bối cảnh mới, việc phát triển doanh nghiệp luôn gắn kết với chuyển đổi văn hóa doanh nghiệp và chuyển đổi số cho phù hợp với tiêu chí, xu hướng mới. Nhưng, yếu tố con người vẫn luôn là vấn đề then chốt trong mọi hoạt động, khi thực hiện việc chuyển đổi số sẽ dôi dư nhiều lao động, thu nhập không bình đẳng. Do vậy, để xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số, tổ chức công đoàn đóng vai trò rất quan trọng trong mỗi doanh nghiệp, các tổ chức công đoàn cần quan tâm tới việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, người lao động; tăng cường đào tạo bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên người lao động về kĩ năng nghiệp vụ sử dụng thành thạo công nghệ, đồng thời, công đoàn phải là cầu nối, gắn kết người lao động với chủ sử dụng lao động, từ đó phát huy môi trường văn hóa doanh nghiệp phù hợp với đặc trưng ngành, nghề và đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn chuyển đổi số.
Để tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn các cấp làm tốt vai trò của mình đối với xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số, ông Trần Hồng Tuấn đưa ra một số đề xuất, kiến nghị:
Thứ nhất, đối với các cấp lãnh đạo, chuyên môn: Tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn hoạt động hiệu quả nhất, trong đó tạo điều kiện về thời gian, kinh phí, nguồn lực để công đoàn phát động các phong trào thi đua, sáng tạo, đổi mới để có những sáng kiến làm lợi cho đơn vị. Đồng thời, tạo điều kiện cho người lao động được học tập, tiếp cận những kiến thức mới, công nghệ mới áp dụng vào công tác chuyên môn.
Thứ hai, đối với công đoàn các cấp, cần phải làm tốt công tác truyền thông về chuyển đổi số thông qua các hình thức phù hợp tới 100% cán bộ, công chức, viên chức để mỗi người hiểu, nắm bắt được chủ trương chung về chuyển đổi số, xây dựng “ngân hàng số”, “ngân hàng thông minh” vận dụng vào công việc, đồng thời làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo đơn vị trong việc chuyển đổi số.
Thứ ba, đối với đoàn viên công đoàn, cần nhìn nhận và ý thức rõ trách nhiệm của bản thân trong chuyển đổi số và xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong kỉ nguyên công nghệ số, tích cực học hỏi và cập nhật thông tin mới nhất về chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng trong nước, khu vực và thế giới; tích cực và chủ động ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển các sản phẩm và dịch vụ công nghệ mới trong các hoạt động ngân hàng thông qua việc tham gia vào các dự án, chương trình, hoạt động để phát triển, nâng cao hiệu quả và đảm bảo tính bền vững trong công tác chuyển đổi số; đoàn viên có thể sử dụng các phương tiện truyền thông như website, fanpage, tạp chí, báo, đài, truyền hình, để tuyên truyền về công tác chuyển đổi số và giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin của cơ quan, đơn vị mình. Qua đó, giới thiệu và xây dựng, quảng bá hình ảnh, văn hóa doanh nghiệp mình với công chúng, với khách hàng và toàn xã hội.
Luật gia Nguyễn Hoàng Mai, Giảng viên chính Trường Đại học Công đoàn với tham luận “Văn hóa số trong hoạt động công đoàn” chia sẻ việc đưa văn hóa số vào trong hoạt động công đoàn là biểu hiện của việc thay đổi cách thức liên kết giữa các bộ phận của tổ chức hoặc giữa tổ chức công đoàn với tổ chức khác. Cán bộ công đoàn tư duy, hành động, hợp tác với nhau và với các đối tác khác trong môi trường công nghệ, từ đó, tạo nên các giá trị văn hóa số, được xem là một dạng văn hóa mới.
Luật gia Nguyễn Hoàng Mai, Giảng viên chính Trường Đại học Công đoàn trình bày tham luận
Luật gia Nguyễn Hoàng Mai cho biết, sự phát triển của khoa học, công nghệ có những tác động không nhỏ đến hoạt động công đoàn. Công nghệ kĩ thuật số cho phép công đoàn phát triển các ứng dụng về công đoàn, ứng dụng của người lao động cũng như cơ sở dữ liệu của riêng tổ chức công đoàn mà các đoàn viên hoặc người lao động có thể truy cập được. Sự tương tác kĩ thuật số (một phần biểu hiện của văn hóa số) cũng có thể mang lại những lợi ích khác cho hoạt động công đoàn như giảm thiểu chi phí họp, chi phí in ấn gửi văn thư. Kèm theo đó, tốc độ trao đổi thông tin giữa nội bộ một tổ chức công đoàn, giữa các cấp công đoàn với nhau, giữa tổ chức công đoàn với tổ chức khác được nhanh chóng, kịp thời thông qua việc sử dụng tinh vi hơn các công nghệ kĩ thuật số hiện có. Những thuận lợi nêu trên cũng giúp các công đoàn có thể nâng cao năng lực đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các đoàn viên, người lao động. Nếu trước đây, con đường duy nhất để phát triển đoàn viên là các cán bộ công đoàn phải tự mình đi về cơ sở, gặp gỡ, tương tác trực tiếp người lao động để tuyên truyền hoặc gửi các bản in giới thiệu về tổ chức thì nay đã có thể thông qua phần mềm, linh hoạt về thời gian, tiết kiệm về chi phí, trả lời được nhiều câu hỏi, thống kê nhanh chóng các thông tin cần tìm hiểu về người lao động.
Bên cạnh những thuận lợi mà công nghệ số mang lại cho văn hóa trong hoạt động của tổ chức công đoàn thì văn hóa số cũng đang thách thức các tổ chức công đoàn phải suy nghĩ lại về cách họ hoạt động, cách thức họ có thể thích nghi và liệu “chủ nghĩa công đoàn kĩ thuật số hay trực tuyến” có nên là xu hướng mới hay không. Việc tăng cường truy cập vào phương tiện truyền thông xã hội cả trong và ngoài nơi làm việc ngày càng trở thành hoạt động “bình thường”, tuy nhiên, làm thế nào để duy trì được văn hóa của những thay đổi do số hóa gia tăng dưới hình thức cải tiến hoặc bổ sung cho công đoàn mà vẫn đồng thời duy trì các nguyên tắc và giá trị cốt lõi của tổ chức nhằm có thể thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi của người lao động một cách hiệu quả.
Luật gia Nguyễn Hoàng Mai đề xuất một số biện pháp để các tổ chức công đoàn xem xét, nghiên cứu tiếp cận và chuẩn bị, đảm bảo “văn hóa số” trở thành những ưu điểm, làm đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn trong bối cảnh toàn thế giới chịu tác động mạnh mẽ của quá trình chuyển đổi số:
Một là, công đoàn cần quan tâm chuẩn bị về con người đáp ứng chuẩn nhất định để có thể vận dụng văn hóa số trong hoạt động công đoàn: Chuẩn bị con người hay lực lượng đáp ứng yêu cầu của áp dụng văn hóa số bao gồm các “cán bộ công đoàn số”, ví dụ như cán bộ công đoàn cần có khả năng truy cập các nguồn thông tin số; có khả năng giao tiếp trong môi trường số; có kĩ năng số cơ bản; biết trao đổi thông tin hoạt động trên mạng; có chuẩn mực đạo đức trong môi trường số; có khả năng tự bảo vệ thể chất và tâm lí trước các ảnh hưởng từ môi trường số; thực thi quyền và trách nhiệm của bản thân trong môi trường số; có thể định danh và xác thực dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư trong môi trường số.
Hai là, công đoàn cần xác định rõ kế hoạch về việc đầu tư cho một hệ thống hạ tầng đủ tốt để đảm bảo quá trình vận hành văn hóa số trong hoạt động công đoàn: Để có thể đầu tư cho một hệ thống hạ tầng đủ tốt, cần có tài chính và các quy định cụ thể làm chuẩn mực cho việc bảo đảm dữ liệu và phương thức áp dụng tương tác, giao tiếp ứng xử trên nền tảng số. Điều này cần thiết phải trao đổi, thống nhất không chỉ tại phạm vi công đoàn cơ sở mà cần phải có sự đồng bộ của toàn hệ thống. Bên cạnh đó, những thông tin, dữ liệu cần được kiểm soát nguồn nhập và nguồn phát, vậy nên việc đầu tư cho hệ thống hạ tầng không chỉ liên quan đến cơ sở, nền tảng, dữ liệu... mà còn liên quan đến việc quản lí các cơ sở, nền tảng, dữ liệu... kèm theo đó là việc xây dựng bộ quy chuẩn quản lí nội bộ, đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lí nhà nước về hạ tầng dữ liệu số. Ở Việt Nam, Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội, vì vậy, các thông tin dữ liệu sẽ cần đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, cấp cơ sở cần đảm bảo việc quản lí của cấp trên cơ sở.
Ba là, công đoàn cần tuyên truyền, vận động đoàn viên, người lao động, cán bộ công đoàn và phía người sử dụng lao động cùng phối hợp thích nghi văn hóa số trong hoạt động, cần xây dựng chiến lược thể hiện rõ lộ trình hoàn thiện văn hóa số trong hoạt động của mình: Để xây dựng văn hóa số, bước đầu tiên cần xác định những giá trị văn hóa số của tổ chức công đoàn. Tuy mỗi công đoàn đã có những giá trị văn hóa đặc trưng và khác nhau, nhưng trong bối cảnh áp dụng văn hóa số cần đánh giá được các hành vi của từng cá nhân trong tổ chức sẽ thay đổi và thể hiện theo đúng những gì tổ chức công đoàn kì vọng. Về phía chuyên môn, hầu hết các cơ quan, đơn vị đều đã có bộ quy tắc ứng xử thể hiện việc triển khai văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp, vì vậy, việc hình thành thêm văn hóa số của công đoàn cần có sự tương thích, tích hợp một số các chiến lược tương đồng với chiến lược của phía chuyên môn trong quản lí về văn hóa số.
“Xây dựng nguồn lực con người nhằm phát triển văn hóa doanh nghiệp và chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng” là nội dung PGS., TS. Phạm Thị Tuyết, Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng, Học viện Ngân hàng tham luận tại Tọa đàm. Theo PGS., TS. Phạm Thị Tuyết, văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng giúp truyền tải tư duy và tầm nhìn của nhà lãnh đạo, giúp toàn thể nhân viên trong tổ chức thay đổi tư duy và có tâm thế “an toàn tâm lí”; các cá nhân nhận thức rõ việc thay đổi cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự, yêu cầu về chất lượng nhân sự, thay đổi quy trình cung cấp sản phẩm dịch vụ, cách thức bán hàng… trong ngân hàng là điều kiện tất yếu trong bối cảnh chuyển đổi số; văn hóa doanh nghiệp giúp các cá nhân trong tổ chức dễ chấp nhận rủi ro và biết cách vượt qua các rào cản; giúp ngân hàng phát huy các giá trị cốt lõi, gắn kết nhân viên và giảm áp lực, căng thẳng; hạn chế xung đột nội bộ, tăng tương tác trong môi trường số, hướng các cá nhân phối hợp và tự kiểm soát.
PGS., TS. Phạm Thị Tuyết cho biết, trong báo cáo “Thách thức Văn hoá số: Thu hẹp khoảng cách giữa nhân viên và lãnh đạo”, Capgemini và Viện Công nghệ Massachusetts/MIT (2017) đã chỉ rõ 07 đặc trưng văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số: (1) Lấy khách hàng làm trung tâm: Sự thấu hiểu khách hàng, dựa vào các giải pháp công nghệ để mở rộng cơ sở khách hàng, chuyển đổi trải nghiệm của khách hàng và cùng khách hàng tạo ra các sản phẩm mới; (2) Đổi mới: Cách thức doanh nghiệp khuyến khích các hành vi chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, suy nghĩ phá cách và khuyến khích tạo ra các ý tưởng mới; (3) Quyết định dựa trên dữ liệu: Tư duy sử dụng dữ liệu và phân tích để đưa ra quyết định kinh doanh tốt hơn là đặc tính quan trọng của văn hóa phù hợp chuyển đổi số; (4) Tư duy số: Cách doanh nghiệp ưu tiên công nghệ để giải quyết mọi thách thức, vấn đề của mình. Ngân hàng phải coi ứng dụng giải pháp kĩ thuật số là điều tất yếu và chuyển đổi số chỉ dựa trên công nghệ. Con người là yếu tố quyết định kết quả của chuyển đổi số. Vì vậy, mọi thành viên trong tổ chức cần mô tả lại quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp để có thể thay đổi tư duy nhằm thích ứng với quy trình; (5) Văn hóa đáp ứng và linh hoạt: Tốc độ và khả năng thích ứng của tổ chức trước những yêu cầu thay đổi. Công nghệ cần phải thay đổi và cải tiến không ngừng; (6) Văn hóa mở: Tư duy mở rộng quan hệ đối tác với các mạng lưới bên ngoài như nhà cung cấp bên thứ ba, công ty khởi nghiệp hoặc chính khách hàng; (7) Hợp tác: Khả năng tạo ra các nhóm liên bộ phận, chức năng chéo để tối ưu hóa năng lực của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, PGS., TS. Phạm Thị Tuyết cũng chỉ ra một số rào cản của chuyển đổi số như: Văn hóa chống lại sự thay đổi, chia sẻ và cộng tác hạn chế, doanh nghiệp chưa sẵn sàng, khoảng cách tài năng nhân sự quá lớn, thực tiễn tổ chức chưa có chiến lược quản trị nhân tài, thay đổi trong tổ chức không phải là vấn đề dễ dàng.
PGS.,TS. Phạm Thị Tuyết, Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng, Học viện Ngân hàng
trình bày tham luận
Qua phân tích, PGS., TS. Phạm Thị Tuyết đưa ra một số đề xuất xây dựng nguồn lực con người nhằm phát triển văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng: (i) Đội ngũ nhà lãnh đạo, quản lí ngân hàng cần xác định tầm nhìn “kiến tạo tổ chức vượt trội”; (ii) Các ngân hàng phải đặt nguồn lực con người ở vị trí trung tâm trong phát triển văn hóa doanh nghiệp và chuyển đổi số hoạt động ngân hàng; (iii) Xây dựng chiến lược, kế hoạch tuyển dụng nhân sự phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm trong bối cảnh chuyển đổi số; (iv) Các ngân hàng cần xây dựng chiến lược đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực có kiến thức, kĩ năng số; (v) Các cơ sở giáo dục đào tạo của Ngành cần rà soát chương trình đào tạo, cập nhật, bổ sung học phần mới; mở các ngành học mới; đổi mới phương thức đào tạo, gia tăng trải nghiệm thực tế cho sinh viên; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên…
Với tham luận “Văn hóa doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV”, bà Vũ Thị Nga, Phó Chủ tịch Công đoàn BIDV cho biết, với lịch sử hơn 66 năm xây dựng và phát triển, bên cạnh việc tiên phong thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước, thực thi chính sách tiền tệ, thực hiện tốt các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm xã hội, BIDV luôn nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và tập trung đẩy mạnh xây dựng, phát triển văn hóa doanh nghiệp, coi đây là tài sản vô giá, là nền tảng cho sự phát triển bền vững, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ như hiện nay. Trong Chiến lược phát triển kinh doanh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, BIDV xác định “Nguồn nhân lực và văn hóa doanh nghiệp”, “Công nghệ và Ngân hàng số” là hai trong ba trụ cột phát triển chính.
Bà Vũ Thị Nga cũng chia sẻ một số bài học về xây dựng, phát triển văn hóa doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số tại BIDV:
Một là, công tác xây dựng và thực hành văn hóa doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số cần được lãnh đạo các cấp quán triệt, thực hiện nghiêm túc, bài bản gắn với các giá trị cốt lõi, chiến lược phát triển; phát huy tinh thần “lãnh đạo nêu gương” từ trụ sở chính đến chi nhánh, đơn vị thành viên.
Hai là, việc tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ như Hội thi Dịch vụ, Ngày hội sáng tạo, Hội thi Văn hóa Kiểm soát rủi ro, trong đó, hầu hết các sáng kiến đạt giải là về số hóa, đổi mới quy trình, phát triển sản phẩm mới và kênh phân phối số như iBank, SmartBanking, BIDV Home... đã giúp BIDV hoàn thiện thêm bộ sản phẩm để thu hút và phục vụ khách hàng tốt hơn.
Ba là, đa dạng hóa nội dung và các hình thức truyền thông văn hóa doanh nghiệp, trong đó tận dụng các kênh truyền thông số để đẩy mạnh tuyên truyền, tạo hiệu ứng lan tỏa sâu, rộng, kịp thời.
Bốn là, tăng cường chia sẻ, giao lưu, xây dựng văn hóa doanh nghiệp của ngành Ngân hàng, của từng đơn vị về cách làm hay, hiệu quả trong xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp trong thời đại số.
Năm là, xác định xây dựng và bồi đắp văn hóa chính là xây dựng và phát triển nguồn nhân lực và chuẩn hóa hành vi giao tiếp, ứng xử: Với hơn 27 nghìn người lao động, Ban lãnh đạo BIDV luôn quán triệt xây dựng tác phong, hành vi ứng xử trong cả môi trường thực và môi trường số. BIDV luôn lắng nghe các phản hồi của khách hàng trên mạng xã hội về dịch vụ, phong cách, thái độ của cán bộ, từ đó tiếp tục cải thiện, nâng cao chất lượng phục vụ. BIDV cũng ban hành Quy chuẩn cán bộ Trụ sở chính và Quy định ứng xử trên mạng xã hội, trong đó yêu cầu người lao động BIDV luôn tuân thủ các quy định pháp luật và của BIDV khi tham gia không gian mạng.
Tổ chức công đoàn với xây dựng văn hóa doanh nghiệp
Trao đổi tại Tọa đàm, ông Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch Công đoàn Cơ quan NHNN Trung ương cho biết, chuyển đổi số là một trong các nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và được đưa vào các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị của Chính phủ.