TS. Nguyễn Hữu Huân: Hai ngân hàng Mỹ sụp đổ có thể là dấu hiệu của cuộc khủng hoảng tài chính mới |
Đánh giá về ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay, TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng, cho biết: "Nếu xét đến sức khoẻ của ngân hàng theo chỉ tiêu CAMELS (Capital (vốn), Assets (tài sản) Management (quản lý), Earnings (lợi nhuận), Liquidity (thanh khoản) - PV) và Sensitivity (độ nhạy cảm với các rủi ro thị trường) thì ngành ngân hàng của Việt Nam hiện nay đang đối mặt với ba vấn đề lớn gồm: thanh khoản, chất lượng tài sản và lãi suất".
Trước hết, các ngân hàng đang đối mặt với vấn đề thanh khoản. Một vài ngân hàng đang hoàn toàn trông cậy vào sự trợ giúp của Ngân hàng Nhà nước để bảo toàn thanh khoản, có nghĩa là khả năng trả tiền gửi khách hàng, trả nợ.
"Sự thiếu hụt thanh khoản đến từ 2 nguyên nhân chính: nợ xấu làm dòng tiền cho vay không trở lại với ngân hàng và do đó buộc nhiều ngân hàng phải huy động vốn với lãi suất cao để bù đắp thanh khoản; các khoản đầu tư nhiều rủi ro, trong đó có việc nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, trong khi nhiều nhà phát hành trái phiếu phải hoãn nợ. Chính phủ cũng vừa ban hành Nghị định số 8 để khơi thông thị trường trái phiếu đang đóng băng vì nhiều nhà phát hành đang đứng trước nguy cơ vỡ nợ", TS Hiếu phân tích.
Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, ba vấn đề lớn ngành ngân hàng đang đối diện là: thanh khoản, chất lượng tài sản và lãi suất. |
Việc thiếu thanh khoản dẫn đến nhiều ngân hàng phải duy trì lãi suất cao để huy động tiền gửi. Lãi suất huy động cao đẩy lãi suất cho vay cao, làm tê liệt nền kinh tế và đẩy nhiều doanh nghiệp vào tình trạng ngưng hoạt động hay phá sản.
"Cứ như thế vòng xoáy doanh nghiệp gặp khó khăn đưa đến nợ xấu và chậm trả nợ; nợ xấu và hoãn nợ dẫn đến tăng lãi suất để huy động vốn mới để trả vốn cũ và từ đó đẩy lãi suất lên cao, tạo ra nguyên nhân nhiều doanh nghiệp bị đánh bật khỏi thương trường. Cuối cùng, khủng hoảng và suy thoái sẽ xuất hiện", vị chuyên gia đánh giá.
Trong bối cảnh này, ngày 15/3/2023 Ngân hàng Nhà nước thông báo sẽ giữ nguyên lãi suất tái cấp vốn ở mức 6%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,5%/năm xuống 3,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng giảm từ 7,0%/năm xuống 6,0%/năm. Động thái hạ lãi suất có thể xem là sự nới lỏng chính sách tiền tệ.
Cùng với động thái này, Ngân hàng Nhà nước được chờ đợi sẽ tiếp tục bơm thanh khoản cho hệ thống ngân hàng qua các hoạt động trên thị trường mở. Thị trường hoan nghênh quyết định hạ một số lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước và VN-Index đã tăng điểm sau quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Với một độ trễ khoảng 1 tháng việc giảm lãi suất điều hành sẽ tác động đến mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường 1 và làm tăng nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
"Tuy nhiên, mặt bằng lãi suất cho vay doanh nghiệp hiện vẫn cao, và đặc biệt quyết định mới đây của Ngân hàng Nhà nước chưa tác động nhiều đến lãi suất huy động. Chừng nào lãi suất huy động còn cao thì mặt bằng lãi suất cho vay chưa thể giảm nhiều và việc khai thông nguồn vốn cho nền kinh tế vẫn bế tắc" TS Hiếu đánh giá.
Vị chuyên gia phân tích thêm: "Bên cạnh khó khăn về thanh khoản và tác động của lãi suất, ngân hàng đang phải duy trì tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn được rút xuống 34%. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ này sẽ được rút xuống 30% kể từ ngày 31/9/2023. Điều này có nghĩa là các ngân hàng phải huy động rất nhiều vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn vì có đến 80% tổng nguồn vốn huy động là vốn ngắn hạn".
Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, để để cải thiện chất lượng tài sản, các ngân hàng nên minh bạch các con số và thông tin về nợ xấu. Ảnh minh hoạ |
Một vấn đề khác của ngành ngân hàng là chất lượng tài sản. Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, hệ thống ngân hàng không thể tăng cường và khai thông nguồn vốn tín dụng nếu vấn đề chất lượng tài sản của ngành ngân hàng cũng đang đặt ra nhiều lo ngại khi nợ xấu có xu hướng đi lên.
Thực tế, chất lượng tín dụng trong quý IV/2022 của các ngân hàng cho thấy, kết quả kinh doanh nhiều ngân hàng không khả quan, và tỷ lệ nợ xấu tăng lên, dù tỷ lệ dự phòng trên tổng nợ xấu rất cao với độ bao phủ tại một số ngân hàng lên đến 200-300%. Một trong những nguyên nhân nợ xấu đang tăng là do từ năm 2020 các ngân hàng thực hiện phân loại lại nợ xấu, nợ quá hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là sau khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng do dịch Covid-19. Các quy định này đã hết hạn vào ngày 30/6/2022 và nay nhiều món nợ trên được phân loại nợ theo đúng theo quy định hiện hành và trở thành nợ xấu và nợ mất vốn.
Thêm vào đó, sang năm 2023 tình hình nợ xấu lại xấu đi vì các doanh nghiệp tiếp tục gặp rất nhiều khó khăn. Theo VCCI có đến 51.000 doanh nghiệp ngưng hoạt động hay giải thể trong hai tháng đầu năm 2023, một tình trạng rất báo động. Trong khi đó sức cầu yếu. Chỉ cần đi một vòng các siêu thị, trung tâm mua sắm chúng ta cũng thấy sự vắng vẻ, thiếu cảnh nhộn nhịp của những ngày đầu năm thường thấy trong những tháng đầu năm.
Vị chuyên gia cho rằng để cải thiện chất lượng tài sản, các ngân hàng nên minh bạch các con số và thông tin về nợ xấu. Nợ xấu sẽ không tự nhiên biến mất nếu cứ mãi “Sweeping all the trash under the carpet” (Quét rác rưởi xuống dưới tấm thảm đẹp để che phủ).
Thêm nữa, ngân hàng có thể tìm cách bán nợ xấu trên sàn giao dịch nợ xấu mà Công ty Quản lý tài sản (VAMC) đã thành lập năm ngoái. Tuy nhiên, để chợ nợ xấu được hoạt động mạnh, luật pháp cần sửa đổi việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm, thế chấp, cầm cố.
"Nghị quyết 42/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu đã được gia hạn từ 15/8/2022 đến 31/12/2023. Nghị quyết này cần bổ sung sửa đổi hay thay thế bằng một Nghị quyết khác của Quốc hội để biến việc xử lý nợ xấu thành luật và cần phải được bổ sung nhiều điều khoản để công việc xử lý nợ và thu hồi nợ hiệu quả hơn và phù hợp hơn trong môi trường kinh doanh và pháp luật mới", TS Hiếu đề xuất.
Yến Thanh
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|