Tọa đàm: Sân bay nhỏ cho kinh tế địa phương cất cánh

(Banker.vn) Dự báo tới năm 2035, hàng không Việt Nam sẽ phục vụ tới 136 triệu hành khách, gấp đôi số lượng dự kiến cho cả năm 2022 là 70-80 triệu lượt hành khách.
Đầu tư sân bay nhỏ ở địa bàn khó khăn: Cơ hội khai thác lợi thế phát triển kinh tế

Nhu cầu tăng, nhiều cảng hàng không khai thác hết công suất

Theo thông tin từ Toạ đàm: “Sân bay nhỏ cho kinh tế địa phương cất cánh” được Báo Đầu tư tổ chức ngày 11/10, nhu cầu giao thương và đi lại tăng rất mạnh sau đại dịch Covid-19. Điều đó cho thấy, nhu cầu phải nâng cấp các sân bay hiện hữu và đầu tư các sân bay mới đang trở thành vấn đề cấp bách.

Sân bay nhỏ cho kinh tế địa phương cất cánh: Giảm tải cho ngành hàng không Việt Nam
Tới năm 2035, hàng không Việt Nam sẽ phục vụ tới 136 triệu hành khách, gấp đôi số lượng dự kiến cho cả năm 2022 là 70-80 triệu lượt hành khách

Đặc biệt, theo dự báo của Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế (IATA), tới năm 2035, hàng không Việt Nam sẽ phục vụ tới 136 triệu hành khách, gấp đôi số lượng dự kiến cho cả năm 2022 là 70-80 triệu lượt hành khách.

Trong khi đó, hiện Việt Nam có 22 cảng hàng không đang hoạt động, trong đó nhiều cảng hàng không đã phải khai thác vượt công suất công bố như tại các nhà ga hành khách nội địa sân bay Côn Đảo, Cát Bi, Phú Quốc, Liên Khương, Cam Ranh...

Trên cơ sở đó, các chuyên gia kinh tế cho rằng, bên cạnh sân bay lớn như Long Thành đang được khẩn trương thi công, Việt Nam cần có thêm các sân bay nhỏ. Các sân bay này ngoài phục vụ nhu cầu di chuyển hành khách và hàng hóa, còn là “bộ đệm” dự phòng cho các sân bay lớn, có ý nghĩa giúp thúc đẩy kinh tế địa phương, phục vụ an ninh quốc phòng cũng như thực hiện các chức năng khác nhằm hỗ trợ sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, phòng chống cháy rừng…

Trên thực tế, nhiều địa phương thời gian qua cũng nhận ra sự cấp thiết cần có các sân bay để phục vụ nhu cầu đi lại và thu hút đầu tư, phát triển kinh tế. Cụ thể, ngày 29/9 mới đây, UBND tỉnh Hà Giang đã có Công văn số 2980/UBND-KTTH gửi Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giao thông vận tải đề nghị bổ sung sân bay Tân Quang vào quy hoạch, nhằm khai thác tốt hơn lợi thế phát triển của địa phương.

Trước đó, một số địa phương như Sơn La, Tuyên Quang, Kon Tum, Ninh Thuận, Đồng Nai cũng đề nghị được bổ sung sân bay vào dự thảo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050. Trong đề xuất xây dựng sân bay, các địa phương này đều nêu bật những thuận lợi, cơ hội nếu như các sân bay được xây dựng tại địa phương mình.

Chia sẻ tại Toạ đàm, ông Nguyễn Trọng Hài - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai cho biết: Lào Cai là tỉnh miền núi có địa hình khó khăn nhưng lại được thiên nhiên ưu đãi về cảnh sắc và bản sắc văn hóa. Với định hướng đưa du lịch thành trụ cột phát triển, từ nhiều năm qua, các nguyên lãnh đạo tỉnh Lào Cai đã nhiều lần trăn trở về việc phải phát triển hạ tầng và giao thông đồng bộ, trong đó bao gồm cả việc xây dựng một sân bay.

"Khi có quy hoạch về xây dựng sân bay Sapa, chúng tôi cũng đã tìm thêm chuyên gia về tư vấn, xây dựng cảng hàng không với kỳ vọng khi hoàn thành, dự án này sẽ thúc đẩy lượng khách du lịch đến Lào Cai, và kinh tế địa phương phát triển hơn nữa" - ông Nguyễn Trọng Hài nhấn mạnh.

Tọa đàm: Sân bay nhỏ cho kinh tế địa phương cất cánh
Hiện nay, tại Việt Nam có tổng 22 sân bay có hoạt động bay dân sự, trong đó có 10 sân bay quốc tế

Sự cần thiết bổ sung các cảng hàng không vào quy hoạch?

Tại Tọa đàm “Sân bay nhỏ cho kinh tế địa phương cất cánh”, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đều nhấn mạnh sự cần thiết phải bổ sung vào Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 thêm các dự án mới tại các địa phương.

Theo ông Mick Werson, Chuyên gia Kinh tế trưởng NACO – một công ty thuộc Tập đoàn Royal HaskoningDHV: Việt Nam cần tính tới việc quy hoạch hệ thống sân bay theo 3 lớp. Lớp trên cùng là các sân bay trung tâm lớn với lưu lượng hàng năm hơn 20 triệu lượt hành khách, xử lý phần lớn nhu cầu giao thông. Tầng thấp nhất là các sân bay địa phương hoặc cấp ba với ít hơn 1 triệu hành khách hàng năm. Và lớp ở giữa, còn được gọi là lớp cầu nối, giữ vai trò kết nối các sân bay trung tâm và sân bay địa phương.

Những sân bay này không chỉ có chức năng như một 'trung chuyển' trực tiếp cho các sân bay lớn trong mạng lưới tối ưu hóa vận tải mà còn là sân bay dự phòng chiến lược trong trường hợp các sân bay lớn bị quá tải. Nói cách khác, các sân bay trung tâm lớn không thể duy trì mạng lưới giá trị và lưu lượng giao thông vượt trội của chúng nếu không có các sân bay nhỏ.

Cũng theo ông Mick Werson, bên cạnh chức năng kết nối, các sân bay nhỏ còn mang theo những ý nghĩa khác. Các sân bay nhỏ với hơn 1 triệu hành khách hàng năm - khi được quản lý hợp lý - có thể tạo ra giá trị kinh tế trực tiếp về lợi nhuận cho các nhà khai thác và nhà đầu tư. Ngoài ra, chúng tạo ra việc làm trực tiếp. Và cuối cùng, chúng tạo ra giá trị kinh tế gián tiếp: giúp thu hút đầu tư và thúc đẩy hoặc hỗ trợ các hoạt động kinh tế (chẳng hạn như du lịch). Theo cách như vậy, các sân bay nhỏ địa phương đã gián tiếp thúc đẩy tạo ra việc làm và nguồn thu từ thuế cho các chính phủ.

“Mặc dù tại mỗi sân bay có một đặc thù khác nhau và có nhiều yếu tố cần được xem xét, nhưng xét chung, mỗi sân bay quy mô 1 triệu hành khách hàng năm tạo ra 1.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp”, ông Mick Werson cho biết.

Cũng nói về sự cần thiết của xây dựng sân bay nhỏ tại các địa phương, ông Nguyễn Văn Vịnh – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) – cho rằng: Hiện nay, tại Việt Nam có tổng 22 sân bay có hoạt động bay dân sự, trong đó có 10 sân bay quốc tế. Việc phát triển thêm các sân bay nhỏ về cơ bản, nếu được đầu tư sẽ mang lại cơ hội tiếp cận, mở đường cho sự phát triển của các địa phương. Kết nối hàng không tạo điều kiện để khai phá tiềm năng phát triển kinh tế.

Việc phát triển thêm các sân bay nhỏ là cần thiết, nhất là trong bối cảnh mạng lưới sân bay tại Việt Nam vẫn được cho là “mỏng” hơn nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, trong khi đó, Việt Nam là một nền kinh tế mở, nhu cầu đi lại, giao thương đang ngày càng gia tăng.

Tuy nhiên, để quyết định đầu tư mang lại hiệu quả, ông Nguyễn Văn Vịnh cho rằng, cần lưu ý 4 vấn đề: Thứ nhất, cần phân biệt rõ (quan niệm) thế nào là sân bay nhỏ; thứ hai, chú trọng hiệu quả đầu tư xây dựng, khai thác, vận hành (gắn với tổ chức vận tải) sẽ quyết định việc đầu tư phát triển sân bay; thứ ba, cần làm rõ phương thức đầu tư phát triển, do nhà nước, khu vực ngoài nhà nước hay hợp tác công – tư (PPP)? Và có cần những cơ chế khuyến khích khu vực đầu tư nước ngoài đầu tư, quản lý, vận hành và khai thác như thế nào.

Lưu ý cuối cùng theo ông Nguyễn Văn Vịnh đó là, các vấn đề mang tính kỹ thuật, cần thu xếp, hoàn thiện về thể chế; tổ chức thực hiện, giám sát thực hiện các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật hàng không; đảm bảo an toàn, an ninh bay, đảm bảo các yêu cầu về quốc phòng…

Ông Phan Đức Hiếu - Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội: Đề xuất xây dựng sân bay của các địa phương là hoàn toàn chính đáng. Lợi ích của sân bay không chỉ dừng lại ở hiệu quả kinh tế khai thác sân bay, mà còn mang tới lợi ích gián tiếp về việc phát triển kinh tế xã hội. Khi quyết định đánh giá một dự án phát triển sân bay tại địa phương, chúng ta cần nhìn tổng thế theo hướng này. Tuy nhiên, các địa phương cũng cần tính toán kỹ càng bài toán phát triển sân bay để có mô hình khai thác càng rõ ràng và chi tiết càng tốt, bởi nó sẽ giảm tối đa những sai sót.

Nguyễn Hòa

Theo: Báo Công Thương