Thứ nhất, về việc điều hành CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Trong 4 tháng đầu năm, NHNN đã theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để điều tiết tiền tệ phù hợp, điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, kêu gọi các NHTM giảm lãi suất huy động và cho vay để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân.
Về tín dụng, theo Thống đốc, đến 25/4, tín dụng tăng 2,75% so với cuối năm ngoái. Tín dụng tăng chậm trong bối cảnh đầu năm không chịu hạn chế bởi hạn mức tăng trưởng tín dụng và trong điều kiện thanh khoản hệ thống các TCTD được cải thiện. Điều đó cho thấy sức hấp thụ vốn thấp, nguyên nhân có thể kể đến là: Các doanh nghiệp không có đầu ra, đơn hàng giảm nên nhu cầu và vốn giảm, có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng do suy yếu trong thời gian chịu tác động bởi Covid-19 nên không đủ điều kiện vay vốn; Tín dụng bất động sản gặp khó khăn chủ yếu do yếu tố pháp lí nên tăng không cao như thời gian trước đây (tín dụng bất động sản tăng 3,51%);
Đối với gói tín dụng 120.000 tỉ đồng, NHNN đã có văn bản hướng dẫn các ngân hàng, 4 NHTM nhà nước đã chuẩn bị vốn để sẵn sàng cho vay khi các địa phương công bố các dự án (Bộ xây dựng đã có văn bản hướng dẫn các địa phương về tiêu chí, điều kiện để xác định dự án).
Về tỉ giá và thị trường ngoại hối, NHNN theo dõi sát tình hình, chủ động điều hành trên cơ sở kết hợp các công cụ CSTT với điều hành linh hoạt tỉ giá trung tâm. Kết quả cho thấy về cơ bản, tỉ giá được ổn định, NHNN mua khoảng 6 tỉ USD từ đầu năm tới nay. Điều này đồng nghĩa với việc NHNN đưa tiền ra nền kinh tế cùng với các kênh khác của CSTT.
Thứ hai, các nhiệm vụ khác được NHNN tiếp tục triển khai như thực hiện các công việc liên quan đến tái cơ cấu ngân hàng, chủ trì xây dựng dự thảo Luật sửa đổi Luật TCTD; tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính (vừa qua NHNN đứng đầu trong Bảng xếp hạng chỉ số PAR index, đây là năm thứ 7 NHNN đứng đầu trong Bảng xếp hạng).
NHNN cũng tiếp tục triển khai các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số, đặc biệt là triển khai Đề án 06. Vừa qua, Bộ Công An và NHNN đã phối hợp chặt chẽ, triển khai nhiều công việc quan trọng, tiến hành kí kết Kế hoạch triển khai Đề án này trong thời gian tới.
Thứ ba, về kiến nghị, Thống đốc có 2 kiến nghị. Trước hết, theo Thống đốc, cần có giải pháp để khai thác cầu nội địa nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu (cầu nước ngoài, tỉ lệ Xuất khẩu/GDP gần 100%) nên trong điều kiện các nước vẫn còn thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì khả năng cải thiện cầu nước ngoài không thể nhanh được.
Số liệu cho thấy tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng vẫn có mức tăng trưởng cao hơn cùng kì, loại trừ giá tăng 8,3% trong khi 4 tháng năm 2022 chỉ tăng 3,9% (khách quốc tế đến Việt Nam tăng 19,2 lần cùng kì năm ngoái). Đây là yếu tố giúp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thời gian qua và cần được quan tâm khai thác cầu nội địa.
Bên cạnh đó, Thống đốc cũng cho rằng, việc thúc đẩy tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cần hài hòa với mục tiêu đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD. Thời gian qua, tín dụng tăng chậm không chỉ ở Việt Nam; khi các ngân hàng Mỹ sụp đổ, lan sang châu Âu, các ngân hàng tại nhiều quốc gia cũng thận trọng hơn khi cho vay, để đảm bảo thanh khoản, sẵn sàng chi trả cho người gửi tiền.
Theo đánh giá của một số nhà phân tích, sự sụp đổ của SVB và First Republic Bank - hai ngân hàng Mỹ có quy mô tổng tài sản trên 200 tỉ USD - không phải do thua lỗ. Hai ngân hàng này đã có lãi ít nhất trong 53 quý liên tục kể từ năm 2010 đến nay, với nợ xấu thấp dưới 0,2%, giá trị trích lập dự phòng rủi ro gấp 4,6 lần quy mô nợ xấu).
Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ chính là các ngân hàng này đầu tư vào các tài sản kì hạn dài, dễ mất giá trong môi trường lãi suất tăng. Bởi vậy, đối với trường hợp của Việt Nam, không nên dựa quá nhiều vào tăng trưởng tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là tín dụng dài hạn, mà thay vào đó, để thúc đẩy tăng trưởng cần thúc đẩy đầu tư công và các nguồn vốn khác để đảm bảo hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô, tiền tệ
Theo sbv.gov.vn
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|