Thí điểm Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự

(Banker.vn) Thực hiện thí điểm Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự công ích nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể...
Phê chuẩn bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao Ông Lê Văn Đông giữ chức Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh Bộ Chính trị chỉ đạo xây dựng toà án, viện kiểm sát ở địa phương

Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn

Chiều 16/4, tiếp tục phiên họp thứ 44, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc thí điểm Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương hoặc bảo vệ lợi ích công.

Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao Nguyễn Huy Tiến
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Huy Tiến

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Huy Tiến cho biết, theo quy định tại Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, việc bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương hoặc bảo vệ lợi ích công thông qua việc khởi kiện vụ án dân sự được giao cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa thực hiện, thực hiện chưa đầy đủ hoặc chưa hiệu quả trách nhiệm của mình dẫn đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm dễ bị tổn thương chưa được bảo vệ hiệu quả theo quy định của pháp luật.

Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do các cơ quan, tổ chức không đủ nguồn lực, năng lực, kinh nghiệm để tham gia tố tụng; pháp luật chưa quy định về cơ chế bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt quyền khởi kiện vụ án dân sự trong các trường hợp này.

Qua thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án, vụ việc trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, Viện kiểm sát nhân dân đã phát hiện nhiều trường hợp tội phạm, vi phạm; mặc dù các chủ thể vi phạm đã bị xử lý về trách nhiệm hình sự nhưng phần dân sự gây thiệt hại cho Nhà nước, cho nhóm dễ bị tổn thương vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Hoặc có trường hợp vi phạm chưa đến mức phải xử lý trách nhiệm hình sự nhưng phải giải quyết vấn đề dân sự để khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho Nhà nước hoặc cho nhóm dễ bị tổn thương thì không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khởi kiện, yêu cầu nên đã dẫn đến gây thất thoát, lãng phí, thiệt hại cho Nhà nước, quyền và lợi ích của nhóm dễ bị tổn thương chưa được bảo vệ triệt để, hiệu quả.

Theo đó, mục đích ban hành Nghị quyết nhằm thực hiện thí điểm Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự công ích nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn hiện nay.

Đồng thời, đánh giá tính hiệu quả của cơ chế Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện để bảo vệ quyền dân sự của chủ thể thuộc nhóm dễ bị tổn thương hoặc bảo vệ lợi ích công trong trường hợp không có người khởi kiện. Trên cơ sở đó, sau khi kết thúc thí điểm sẽ tiến hành tổng kết, đưa ra đề xuất, kiến nghị phù hợp.

Tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho biết, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết với các lý do được nêu trong Tờ trình của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thống nhất với đề xuất của cơ quan soạn thảo về xây dựng, ban hành Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng

Về các trường hợp Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện (Điều 4) và việc tiếp nhận thông tin, thụ lý, kiểm tra, xác minh (Điều 11), Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp nhận thấy, việc thí điểm giao Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự công ích là nhằm tạo lập cơ chế bảo vệ có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền dân sự của nhóm dễ bị tổn thương.

Tuy nhiên, cơ chế này không được chồng chéo, mâu thuẫn với các biện pháp bảo vệ theo pháp luật hiện hành nên cần loại trừ khả năng dẫn tới tình trạng “dân sự hóa” quan hệ hình sự, hành chính.

Do đó, việc kiểm tra, xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ cần làm rõ hành vi vi phạm có thuộc trường hợp bị xử lý vi phạm hành chính hoặc vi phạm pháp luật hình sự hay không để kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Việc thông báo cho các chủ thể có liên quan và kiến nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, trách nhiệm khởi kiện chỉ thực hiện khi không thuộc trường hợp xử lý nói trên.

Về thẩm quyền xét xử của Tòa án (Điều 5), ông Hoàng Thanh Tùng cho rằng, quy định thẩm quyền của Tòa án xét xử vụ án dân sự công ích có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để xác định thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong việc khởi kiện. Vì vậy, đề nghị làm rõ và quy định cụ thể thứ tự ưu tiên các tiêu chí để lựa chọn Tòa án xét xử như quy định tại Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 7) và các biện pháp kiểm tra, xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ (Điều 8), đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho rằng, để phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của việc thí điểm, chỉ nên giao thẩm quyền cho Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự công ích, còn quá trình tố tụng cần tuân thủ trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành về quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, về thẩm quyền của Tòa án...

Do đó, việc dự thảo Nghị quyết quy định thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kiểm tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, trong đó nhiều nội dung thuộc thẩm quyền của Tòa án là không phù hợp.

Ngoài ra, đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát các quy định nhằm tách bạch vai trò của Viện kiểm sát nhân dân với tư cách nguyên đơn và vai trò là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp. Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định một số thẩm quyền phù hợp cho Viện kiểm sát nhân dân trong việc kiểm tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình tố tụng.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề xuất dự thảo Nghị quyết gồm 4 Chương và 19 Điều. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026 và được thực hiện trong 3 năm tại các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Đắk Lắk, trừ trường hợp Quốc hội có quyết định khác.

Quỳnh Nga

Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục