Tại Nghị quyết số 115/NQ-CP về phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật trong tháng 7/2023, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), gửi Bộ Tư pháp trước để tổng hợp vào đề nghị của Chính phủ bổ sung Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2024 của Quốc hội. Và trình Quốc hội cho ý kiến luật này tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2024) để thông qua tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2024).
Như vậy từ năm 2008 đến nay, Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt qua 4 lần được sửa đổi, bổ sung. Luật đã góp phần định hướng sản xuất, tiêu dùng những mặt hàng không có lợi cho sức khỏe và môi trường xã hội.
Luật góp phần định hướng tiêu dùng tiết kiệm đối với nhiên liệu có nguồn gốc hóa thạch và khuyến khích sử dụng nhiên liệu thân thiện với môi trường, giảm sử dụng sản phẩm không có lợi cho sức khỏe như đồ uống có cồn…
Luật này cũng góp phần ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Theo số liệu của Bộ Tài chính, số thu thuế tiêu thụ đặc biệt năm sau luôn cao hơn năm trước. Tỷ trọng số thu thuế tiêu thụ đặc biệt trên tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm cũng tăng dần và chiếm khoảng 2% GDP (tính đến năm 2020).
Phát biểu tại Toạ đàm Góp ý xây dựng Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) do Báo đại biểu Nhân dân vừa tổ chức, bà Nguyễn Thị Phương Mai, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đánh giá, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là công cụ chính sách hiệu quả để định hướng sản xuất và tiêu dùng của xã hội.
Tuy nhiên trước yêu cầu thực tiễn, Luật cần phải được sửa đổi. Nhưng sửa thế nào, áp dụng phương pháp tính thuế nào vừa khả thi, vừa khắc phục được hạn chế của Luật hiện hành?.
Với Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt hiện nay, đối tượng chịu thuế còn hẹp so với thông lệ quốc tế. Một số quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, mô tả mặt hàng tại Biểu thuế chưa thực sự rõ ràng, dẫn đến vướng mắc trong thực hiện. Thuế suất thuế với một số mặt hàng ảnh hưởng đến sức khoẻ và xã hội chưa đạt được mục tiêu hạn chế tiêu dùng…
Do vậy, bà Nguyễn Thị Phương Mai nhấn mạnh: "Sửa Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là cần thiết để phát huy hơn nữa vai trò của sắc thuế này".
Tại Tọa đàm, bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, khẳng định việc sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh hiện nay. Sửa luật để cân đối cả 3 khía cạnh: sức khỏe của nhân dân và cộng đồng; thu ngân sách nhà nước và tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển tốt hơn.
TS. Đặng Thị Thu Hoài, Trưởng ban Ban Nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực, Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) nêu quan điểm: Việc sửa đổi Luật cần bảo đảm khắc phục vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật.
Tại Nghị quyết số 115/NQ-CP về phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật trong tháng 7/2023, Chính phủ đã cơ bản thống nhất với 7 nhóm chính sách khi xây dựng Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi). Đó là hoàn thiện các quy định về: đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt; đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt; căn cứ tính thuế; giá tính thuế; thuế suất; hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt và hoàn thiện quy định về điều khoản thi hành.
Đối với chính sách hoàn thiện quy định về căn cứ tính thuế và thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt, Chính phủ đề nghị Bộ Tài chính xây dựng phương pháp tính thuế hỗn hợp (thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và mức thuế tuyệt đối) đối với rượu, bia. Xây dựng giải pháp điều chỉnh tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt với rượu, bia, thuốc lá ở mức thuế suất phù hợp, theo lộ trình trên cơ sở bảo đảm mục tiêu thuế tiêu thụ đặc biệt góp phần định hướng sản xuất, hạn chế sử dụng các sản phẩm không có lợi cho sức khỏe.
Đóng góp cho việc sửa đổi luật, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính) cho biết, mô hình thuế hỗn hợp, tức là kết hợp giữa thuế tương đối và thuế tuyệt đối, ngày càng được nhiều quốc gia áp dụng.
Cũng ủng hộ chọn phương pháp thuế hỗn hợp, TS. Đặng Thị Thu Hoài phát biểu: “Không phải ngẫu nhiên các nước phát triển áp dụng mô hình thuế hỗn hợp. Việt Nam nên áp dụng thuế hỗn hợp với đồ uống có cồn thay cho thuế tương đối hiện nay”.
Một số ý kiến khác cũng cho rằng thuế hỗn hợp là khả thi điều kiện Việt Nam hiện nay. Nhưng vấn đề quan trọng là điều kiện và cách thức triển khai cụ thể như thế nào. Có ý kiến cho rằng Việt Nam cần có một bước chuyển.
Để bảo đảm sức khỏe người tiêu dùng thì với đồ uống có cồn áp thuế tuyệt đối là tốt nhất. Nhưng cách này không phù hợp với điều kiện hiện nay ở Việt Nam và lại gây khó khăn cho doanh nghiệp nội địa. Do vậy chưa nên áp dụng thuế tuyệt đối, mà nên chọn thuế hỗn hợp.
Bà Đặng Ngọc Hương, Tiểu ban Rượu vang và rượu mạnh, Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) cũng nhấn mạnh đến tính khả thi của mô hình thuế hỗn hợp đối với thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam.
“Trước đây, phương pháp thuế tương đối là phù hợp với Việt Nam. Phương pháp này có ưu điểm là tự động điều chỉnh theo lạm phát, giảm thiểu việc điều chỉnh thuế thường xuyên. Và thuận lợi cho việc thu và quản lý thuế. Nhưng thuế tương đối không mang lại hiệu quả mong muốn. 57% đồ uống có cồn ở Việt Nam là từ khu vực phi chính thức”, bà Đặng Ngọc Hương nói.
Như vậy cách tính thuế tương đối không đạt được hiệu quả hướng người tiêu dùng không tiêu thụ các sản phẩm chất lượng thấp, sản phẩm bất hợp pháp.
Kết quả nghiên cứu của CIEM cho thấy thuế hỗn hợp giúp tăng thu ngân sách khoảng 25% so với thuế tương đối.
“Xu hướng áp dụng thuế hỗn hợp với đồ uống có cồn đã rõ, bởi đây là phương pháp tiên tiến của thế giới”, bà Nguyễn Thị Cúc phát biểu.
Hơn nữa, Quyết định số 508/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Cải cách hệ thống thuế đến năm 20230 đã yêu cầu nghiên cứu áp dụng kết hợp giữa thuế suất theo tỷ lệ và mức thuế tuyệt đối đối với một số hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt; và mới đây, Nghị quyết số 115 của Chính phủ đã định hướng vấn đề này.
Nhưng việc áp dụng thuế hỗn hợp phải có lộ trình cụ thể và công khai để doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt nhất.
Các diễn giả tham dự tọa đàm kỳ vọng, sau lần sửa đổi này, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ phát huy cao hơn nữa vai trò với đời sống, kinh tế - xã hội; bảo đảm môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi; hài hòa lợi ích của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thủy Linh
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|