Phó Tổng thư ký VCCI: Doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể kiến tạo phát triển

(Banker.vn) Giai đoạn 2026 - 2030, cần đặt doanh nghiệp vào vai trò trung tâm, không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà là chủ thể kiến tạo, đối tác phát triển.

Bài học của doanh nghiệp giai đoạn 2020 - 2025

Giai đoạn 2021 - 2025 đang dần đi qua với vô vàn biến động, trở thành phép thử khắc nghiệt đối với doanh nghiệp Việt Nam. Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp đã buộc phải tái cấu trúc, đổi mới mô hình, đẩy mạnh chuyển đổi số để trụ vững.

Nhìn nhận về bức tranh toàn cảnh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2021 - 2025, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết: “Rất nhiều yếu tố tác động đến hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam. Song thống kê cho thấy, đến cuối năm 2024, cả nước có gần 900.000 doanh nghiệp đang hoạt động, tăng trưởng trung bình 6,5 - 7%/năm sau đại dịch. Đây là tín hiệu tích cực cho thấy nền kinh tế đang dần phục hồi và lấy lại động lực phát triển”.

Ông Đậu Anh Tuấn chia sẻ, giai đoạn 2020 - 2025 trở thành "phép thử" khắc nghiệt đối với doanh nghiệp Việt Nam. Ảnh: Minh Ngọc

Từ thực tiễn hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp trong giai đoạn qua, ông Đậu Anh Tuấn rút ra 4 bài học kinh nghiệm lớn:

Thứ nhất, khả năng thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp.

Giai đoạn 2021- 2025, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và những biến động kinh tế toàn cầu, đã trở thành một “phép thử” năng lực ứng biến và sức chống chịu của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã thể hiện khả năng thích ứng linh hoạt với hoàn cảnh mới, nhanh chóng chuyển đổi phương thức kinh doanh, áp dụng công nghệ số, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến, và tái cấu trúc chuỗi cung ứng.

“Các doanh nghiệp trong ngành dệt may và da giày - lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề từ sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu đã đầu tư từ sớm vào hệ thống quản trị sản xuất thông minh, tự động hóa và quản lý đơn hàng theo thời gian thực, giúp duy trì hiệu suất và đáp ứng được yêu cầu khắt khe từ đối tác quốc tế” - ông Tuấn dẫn chứng và nhận định, khả năng thích ứng không chỉ là phản ứng tình huống, mà cần được xây dựng như một năng lực cốt lõi của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh biến động ngày càng cao.

Thứ hai, vai trò then chốt của môi trường thể chế và chính sách ổn định.

Theo ông Đậu Anh Tuấn, một trong những phản ánh phổ biến từ cộng đồng doanh nghiệp trong giai đoạn vừa qua là sự lo ngại về tính ổn định và dự báo của môi trường chính sách.

Bài học rút ra trong giai đoạn này là cải cách thể chế không thể dừng ở nghị quyết hay văn bản, mà phải được triển khai đồng bộ từ trung ương đến địa phương, loại bỏ tình trạng “chính sách tốt nhưng không đến được doanh nghiệp”.

Ba là, liên kết chuỗi giá trị và phát triển hệ sinh thái doanh nghiệp.

Dù Việt Nam đã thu hút thành công nhiều dự án FDI lớn, nhưng tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, đặc biệt là điện tử, ô tô và công nghệ cao vẫn còn rất thấp. Nguyên nhân không chỉ nằm ở năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp nội, mà còn ở việc thiếu các chính sách kết nối hệ sinh thái doanh nghiệp một cách bài bản và bền vững.

Bốn là, chính sách đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đại đa số trong tổng số doanh nghiệp cả nước - cần có chính sách riêng biệt, phù hợp với đặc điểm và nhu cầu thực tế. Việc thiết kế chính sách “đúng và trúng” cho doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ giúp tăng sức bật của toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần vốn ưu đãi, quỹ bảo lãnh tín dụng, dịch vụ tư vấn rẻ, công cụ số hóa đơn giản…

Giai đoạn 2020 - 2025, bài học rút ra đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đó là chính sách cho khối doanh nghiệp này phải “đúng và trúng”, không thể chung chung

Như vậy, có thể khẳng định, giai đoạn 2021 - 2025 là giai đoạn thử thách nội lực và khả năng thích ứng của khu vực doanh nghiệp Việt Nam. Dù có những bước tiến nhất định về số lượng và một phần về chất lượng, nhưng vẫn còn nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ để doanh nghiệp có thể phát triển bền vững, đóng góp mạnh mẽ hơn cho nền kinh tế quốc dân.

Nghị quyết 68, 57 "mở đường" cho doanh nghiệp

Trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam đang đối diện nhiều thách thức về năng suất, khả năng hội nhập và đổi mới sáng tạo, Bộ Chính trị ban hành nhiều chính sách quan trọng, trong đó có hai nghị quyết trực tiếp liên quan đến cộng đồng doanh nghiệp, đó là Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Cả hai nghị quyết đều thể hiện tư duy đổi mới mạnh mẽ của Đảng, đặt doanh nghiệp vào vị trí trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế bền vững và hiện đại hóa quốc gia.

Nghị quyết 68 xác lập rõ ràng rằng, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đến năm 2030, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp từ 60 - 65% GDP là một cam kết mạnh mẽ về mặt chính trị và phát triển. Đây là bước tiến lớn về tư duy, thể hiện sự nhất quán trong việc khẳng định vai trò chủ thể của doanh nghiệp tư nhân trong kiến tạo tăng trưởng và việc làm.

Trong khi đó, Nghị quyết 57 thể hiện quyết tâm chính trị rõ ràng trong việc đưa khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP là một mục tiêu rất tham vọng, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ từ cả Nhà nước và doanh nghiệp.

Sự kết nối giữa Nghị quyết 68 và Nghị quyết 57 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Phát triển kinh tế tư nhân và đổi mới sáng tạo không thể tách rời. Một khu vực tư nhân mạnh cần dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, trong khi đổi mới công nghệ chỉ có thể phát huy hiệu quả khi gắn với nhu cầu thực tiễn từ phía doanh nghiệp.

Hai nghị quyết của Bộ Chính trị đã xác lập tầm nhìn chiến lược đúng đắn và kịp thời. Vấn đề then chốt hiện nay là khâu tổ chức thực hiện cần được cải thiện mạnh mẽ, bảo đảm chính sách đi vào thực tiễn hiệu quả.

Quan trọng hơn, cần đặt doanh nghiệp vào vai trò trung tâm, không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà là chủ thể kiến tạo, đồng hành cùng Nhà nước trong thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế tư nhân bền vững” - ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh.

Trong giai đoạn 2026 - 2030, cần xác định lấy doanh nghiệp làm trung tâm, kiến tạo cho phát triển kinh tế, xã hội. Ảnh: Minh Ngọc

Xác định doanh nghiệp là đối tác phát triển

Bước vào giai đoạn 2026 - 2030, nền kinh tế Việt Nam đứng trước yêu cầu phải bứt phá mạnh mẽ về năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh. Muốn vậy, doanh nghiệp, đặc biệt là kinh tế tư nhân cần được tiếp sức bằng một hệ thống chính sách ổn định, minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi về thể chế, đổi mới sáng tạo, công nghệ, tài chính và nguồn nhân lực.

Làm được điều này, từ góc độ doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn đề xuất các giải pháp:

Một là, cải thiện thể chế và hành chính, trong đó cắt giảm chi phí tuân thủ, minh bạch hóa quy định, nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền. Chính sách phải có tính ổn định và dự báo cao.

Hai là, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Cần thêm chính sách ưu đãi thuế cho chi phí R&D, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ ứng dụng công nghệ, hình thành các “vườn ươm công nghệ” cấp vùng.

Ba là, tăng khả năng tiếp cận tài chính, trong đó ưu tiên Phát triển fintech, quỹ đầu tư mạo hiểm, trái phiếu minh bạch; mở rộng tín dụng xanh, tín dụng cho công nghệ cao.

Bốn là, chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao bằng cách gắn kết doanh nghiệp - trường đại học - viện nghiên cứu; đào tạo lại kỹ năng số, quản trị sáng tạo cho người lao động.

Năm là, thúc đẩy liên kết chuỗi, tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp nội địa và FDI; chia sẻ tiêu chuẩn kỹ thuật, phát triển cụm công nghiệp phụ trợ để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.

Như vậy, có thể nói, giai đoạn 2021 - 2025 chứng minh sức bật của doanh nghiệp Việt Nam là có thật. Nhưng để doanh nghiệp bứt phá trong giai đoạn 2026 - 2030, cần một cơ chế minh bạch, chính sách nhất quán và môi trường kinh doanh ổn định.

Doanh nghiệp không chỉ cần hỗ trợ, mà mong muốn được coi là đối tác phát triển, chủ thể kiến tạo. Khi niềm tin được củng cố, khi chính sách đi vào thực chất, doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư, đổi mới, sáng tạo và đóng góp lớn hơn vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), 8 tháng năm 2025, doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng vọt cả về số lượng lẫn vốn đăng ký. Cả nước có 128.200 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với vốn đăng ký đạt 1,25 triệu tỷ đồng, tăng lần lượt 15,7% và 26,1% so với cùng kỳ năm ngoái.

Bên cạnh đó, hơn 81.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, nâng tổng số doanh nghiệp lập mới và quay lại hoạt động lên 209.000, tăng 24,5% so với cùng kỳ, là mức tăng mạnh nhất trong ba năm trở lại đây. Tính bình quân, mỗi tháng có 26.200 doanh nghiệp lập mới và quay trở lại hoạt động.

Hoàng Giang
Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục