Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với PGS. TS Nguyễn Thường Lạng, chuyên gia kinh tế và thương mại quốc tế, giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân xung quanh vấn đề này.

Xuất nhập khẩu ghi nhận kỷ lục mới

- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2025 đạt 839,75 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ. Theo ông, đâu là yếu tố chính thúc đẩy đà tăng trưởng mạnh mẽ này?

PGS. TS Nguyễn Thường Lạng: Theo số liệu từ Cục Thống kê (Bộ Tài chính), tính chung 11 tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 839,75 tỷ USD, trong đó xuất khẩu 430 tỷ USD (tăng 16,1%) và nhập khẩu tăng 18,4%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 20,53 tỷ USD.

margin: 15px auto;" />

11 tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 839,75 tỷ USD. Ảnh minh họa

Riêng xuất khẩu tháng 11 đạt hơn 39 tỷ USD, giảm 7,1% so với tháng trước. Trong 11 tháng, có 36 mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94,1% tổng kim ngạch, trong đó 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, gồm: điện tử, máy tính và linh kiện; máy móc, thiết bị; điện thoại và linh kiện; dệt may; giày dép; phương tiện vận tải và phụ tùng; gỗ và sản phẩm gỗ; thủy sản.

Về cơ cấu, nhóm công nghiệp chế biến đạt 381,7 tỷ USD (88,7%), nông – lâm sản 35,6 tỷ USD (8,3%), thủy sản 10,3 tỷ USD (2,4%) và nhiên liệu – khoáng sản 2,52 tỷ USD (0,6%). Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ với 138,6 tỷ USD, nhập khẩu lớn nhất từ Trung Quốc với 167,5 tỷ USD. Xuất siêu sang Hoa Kỳ đạt 121,6 tỷ USD, sang EU 35,6 tỷ USD; nhập siêu từ Trung Quốc 104,3 tỷ USD, từ Hàn Quốc 28,3 tỷ USD, ASEAN 12,4 tỷ USD.

Đà tăng trưởng xuất khẩu năm 2025 phản ánh sự phục hồi nhu cầu tại các thị trường lớn và năng lực thích ứng nhanh của doanh nghiệp Việt Nam nhờ logistics thuận lợi, tỷ giá ổn định và dịch chuyển đơn hàng toàn cầu về Đông Nam Á. Ngành nông, lâm, thủy sản mở rộng vùng trồng, vùng nuôi đạt chuẩn, áp dụng truy xuất nguồn gốc và tận dụng hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Ngành điện tử hưởng lợi từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng và dòng vốn FDI, tạo nền tảng cho bứt phá xuất khẩu trung và dài hạn.

Kết quả này trùng khớp với dự báo của tôi cách đây 5 năm, khi tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2025 được dự đoán đạt khoảng 950 – 1.000 tỷ USD với các yếu tố được đưa ra đó là các ngành có lợi thế so sánh cao được khai thác hiệu quả. Đồng thời,  được thúc đẩy bởi dòng vốn FDI, lao động giá rẻ và các ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài, giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trong khu vực.

Thực tế cho thấy, môi trường chính sách linh hoạt cùng các FTA tạo thuận lợi cho xuất khẩu và thu hút FDI. So với các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia hay Campuchia, Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược, chi phí lao động cạnh tranh và chính sách đầu tư hiệu quả. Nhiều tập đoàn lớn đã tận dụng cơ hội này để sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao. Năng lực lao động, chi phí cạnh tranh và tỷ giá ổn định tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án FDI. 

- Còn về phía các doanh nghiệp trong nước, ông đánh giá như thế nào về việc họ nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế?

PGS. TS Nguyễn Thường Lạng: Một điểm nổi bật trong bức tranh xuất khẩu Việt Nam là sự chuyển mình rõ rệt của các ngành sản xuất trong nước, đặc biệt là nông nghiệp và dệt may.

Trước đây, các doanh nghiệp thường hoạt động theo mùa vụ hoặc đơn hàng nhất thời, thiếu tính bài bản. Hiện, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư theo chuỗi giá trị hoàn chỉnh, áp dụng hệ thống kiểm định chất lượng, chứng chỉ quốc tế và tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường như CBAM (Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon), ESG (Environmental, Social, and Governance (một khung đánh giá nhằm đo lường tính bền vững và trách nhiệm đối với môi trường, xã hội của doanh nghiệp) hay giảm phát khí nhà kính. Việc chủ động đón đầu các yêu cầu minh bạch của thị trường quốc tế giúp sản phẩm Việt Nam xuất khẩu thuận lợi và đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của khách hàng nước ngoài.

PGS. TS Nguyễn Thường Lạng, chuyên gia kinh tế và thương mại quốc tế, giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. Ảnh: C.P

Trong lĩnh vực nông sản, các doanh nghiệp đã chuẩn hóa toàn bộ quy trình từ sản xuất, chế biến, đóng gói đến vận chuyển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngành dệt may Việt Nam cũng tích lũy kinh nghiệm xuất khẩu qua nhiều năm, xử lý thành công các vụ việc phát sinh và xây dựng uy tín trên thị trường quốc tế. Nguyên lý cơ bản được các doanh nghiệp áp dụng là “khách hàng yêu cầu gì, làm đúng như thế”, giúp duy trì năng lực cạnh tranh mà không cần thay đổi lớn về phương thức sản xuất.

Chính sự chuyên nghiệp, bài bản và kinh nghiệm quốc tế hóa của doanh nghiệp Việt Nam đang trở thành lợi thế bền vững, cho phép họ không chỉ đáp ứng mà còn chủ động đón đầu các xu hướng, tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường toàn cầu.

Dự báo, xuất nhập khẩu cả năm sẽ cán đích 940 tỷ USD

- Xin ông cho biết, những yếu tố nào đang đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy xuất khẩu và thu hút FDI?

PGS. TS Nguyễn Thường Lạng: Động lực tăng trưởng xuất khẩu và thu hút FDI của Việt Nam đến từ sự kết hợp nhiều yếu tố. Trước hết là các cải cách trong nước, từ môi trường đầu tư, thủ tục pháp lý đến chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các yếu tố quốc tế như FTA, quan hệ ngoại giao mềm mỏng và ổn định cũng đóng vai trò quan trọng.

Chi phí lao động cạnh tranh, cùng với việc đồng Việt Nam giảm giá tương đối, giúp sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trên thị trường quốc tế. Những điều kiện này đã tạo ra dòng vốn FDI và thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng ấn tượng trong những năm qua.

Ngoài ra, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã chọn Việt Nam làm điểm đến lâu dài nhằm đón đầu sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế trong tương lai. Việc sở hữu vị trí sản xuất ổn định tại Việt Nam không chỉ giúp họ tận dụng cơ hội hiện tại mà còn mở rộng và chuyển giao dự án thuận lợi khi nền kinh tế bùng nổ.

Từ góc độ tổng thể, Việt Nam hiện hội tụ đầy đủ “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”. Theo đó, chính sách và môi trường đầu tư thuận lợi, vị trí chiến lược, chi phí lao động cạnh tranh cùng quan hệ quốc tế ổn định, tạo bối cảnh lý tưởng cho FDI và tăng trưởng xuất khẩu bền vững.

- Với kết quả đạt được, ông có dự báo gì về xuất nhập khẩu cả năm? Việt Nam có thể tận dụng cơ hội để vươn lên vị trí cao hơn trên bản đồ thương mại toàn cầu?

PGS. TS Nguyễn Thường Lạng: Tính đến 11 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt gần 840 tỷ USD, với dự kiến tăng thêm 80 – 100 tỷ USD trong tháng 12, đưa toàn năm lên khoảng 920 – 940 tỷ USD.

Con số này phản ánh tiềm năng xuất khẩu lớn của Việt Nam, dựa trên lợi thế lao động, dòng vốn FDI, chính sách ưu đãi và vị thế địa lý thuận lợi, đồng thời vượt cả kỳ vọng và mục tiêu trong Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030 của Bộ Công Thương.

Tuy nhiên, nhu cầu toàn cầu vẫn tiềm ẩn biến động. Để duy trì tăng trưởng bền vững, Việt Nam cần đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng chế biến sâu và phát triển thương hiệu quốc gia cho nông sản và các sản phẩm công nghiệp chủ lực. Đồng thời, việc tuân thủ các tiêu chuẩn khắt khe về sản xuất, chế biến, đóng gói và truy xuất nguồn gốc vừa là thách thức, vừa là cơ hội để nâng cao chất lượng, củng cố uy tín và mở rộng thị trường quốc tế.

Sức bật mạnh mẽ của xuất nhập khẩu hiện nay nhờ tận dụng hiệu quả lợi thế cạnh tranh từ các FTA và dòng vốn FDI. Tuy nhiên, thành công này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết. Theo đó, Việt Nam cần nỗ lực làm chủ chuỗi cung ứng toàn cầu. Nếu tận dụng tốt lợi thế và đầu tư bài bản vào tiêu chuẩn, quy trình và chất lượng sản phẩm, Việt Nam hoàn toàn có khả năng bứt phá, duy trì tăng trưởng xuất khẩu bền vững và nâng cao vị thế trên bản đồ thương mại toàn cầu trong những năm tới.

Xin cảm ơn ông!

Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Công Thương tập trung thúc đẩy tiêu dùng, xuất khẩu, đa dạng hóa sản phẩm, thị trường và chuỗi cung ứng. Đồng thời,  đẩy nhanh tiến độ ký kết các FTA với GCC, Pakistan, Ai Cập, Nam Mỹ… phấn đấu ký được 01 Hiệp định trong năm 2025.

Nguyễn Hạnh