Lạm phát
Lạm phát là thuật ngữ dùng để chỉ mức giá của hàng hóa và dịch vụ tăng lên theo thời gian so với một thời kỳ được xác định cụ thể trước đó. Lạm phát được đo lường thông qua chỉ số CPI. Có một số nguyên nhân chính gây ra lạm phát, đầu tiên đó là do cầu kéo. Khi nhu cầu thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ khiến giá cả của mặt hàng đó tăng theo. Chẳng hạn dịp giáp Tết, nhu cầu về thịt heo tăng cao, điều này sẽ đẩy giá thịt heo lên cao hơn thường ngày, kéo theo giá cả các mặt hàng thực phẩm khác cũng tăng lên và xảy ra tình trạng lạm phát.
Nguyên nhân thứ 2 chính là do chi phí đẩy. Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc,… Khi giá của một hoặc một vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tăng lên, dẫn đến giá thành sản phẩm tăng và hệ quả là mức giá chung của toàn thể nền kinh tế tăng. Ví dụ điển hình về nguyên nhân lạm phát do chi phí đẩy chính là giá xăng dầu. Xăng dầu là nguyên liệu đầu vào của rất nhiều doanh nghiệp của các ngành nghề nên khí giá xăng tăng, giá thành phẩm của các doanh nghiệp này cũng tăng theo.
Khi lạm phát cao, giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng nhanh hơn khiến sức mua tiêu dùng giảm và doanh số bán hàng của công ty giảm. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến giá cổ phiếu. Nhìn vào thị trường chứng khoán những năm qua, có thể thấy rằng khi lạm phát tăng nhưng không đến mức quá cao kết hợp với việc thắt chặt chính sách tiền tệ thì thị trường chứng khoán sẽ đi ngang. Nếu lạm phát tăng vượt tầm kiểm soát cộng với việc thắt chặt tiền tệ sẽ khiến thị trường chứng khoán giảm mạnh. Nếu lạm phát giảm cộng với việc nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khóa thì thị trường chứng khoán sẽ bật tăng trở lại.
Tăng trưởng GDP
GDP là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong 1 phạm vi lãnh thổ và 1 thời kỳ nhất định. Như vậy, GDP phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế của 1 quốc gia. GDP tăng chứng tỏ nền kinh tế đang khỏe mạnh và phát triển nhanh, lúc này các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để bứt phá và đạt được tăng trưởng như kỳ vọng.
Ngược lại, GDP giảm thể hiện sự suy thoái kinh tế, lúc này người dân sẽ có thu nhập thấp dẫn đến hạn chế chi tiêu mua sắm. Điều này sẽ khiến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp giảm kéo theo sức hấp dẫn của cổ phiếu cũng sẽ giảm. Một ví dụ tiêu biểu về ảnh hưởng của GDP đến thị trường chứng khoán là giai đoạn 2006-2007, khi Việt Nam có GDP tăng trưởng ở mức cao thì thị trường chứng khoán cũng ghi nhận đà tăng trưởng mạnh mẽ. Giai đoạn 2008-2009, thị trường chứng khoán lao dốc do GDP thời điểm này thấp kỷ lục.
Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa là việc sử dụng chi tiêu của chính phủ và thu ngân sách để tác động đến nền kinh tế. Với điều kiện bình thường, chính sách tài khóa được sử dụng để tác động tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tại thời điểm nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái, nó sẽ là công cụ hữu ích để đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng.
Có 2 loại chính sách tài khóa gồm: Chính sách tài khóa thắt chặt và chính sách tài khóa mở rộng.
Chính sách tài khóa mở rộng là khi chính phủ tăng chi tiêu và giảm thuế. Điều này sẽ giúp thu nhập quốc dân tăng, mở rộng việc làm và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Với chính sách tài khóa mở rộng thì tất cả các thành phần kinh tế sẽ được hưởng lợi từ việc giảm thuế, đặc biệt là những nhóm ngành như bất động sản, vật liệu xây dựng.
Còn chính sách tài khóa thắt chặt là khi Chính phủ giảm chi tiêu công và tăng thuế để kiềm chế lạm phát, lúc này các ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên chính là vật liệu xây dựng, bất động sản. Chính sách tài khóa có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán. Năm 2007, chi tiêu đầu tư công tăng mạnh dẫn đến sự tăng vọt của thị trường chứng khoán. Năm 2008, mức tăng trưởng chi tiêu đầu tư công giảm chỉ còn 5% so với năm trước, thị trường chứng khoán cũng giảm sâu.
Lượng cung cấp tiền tệ trong nền kinh tế
Cung tiền là khái niệm dùng để chỉ lượng cung cấp tiền tệ trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu mua hàng hóa, dịch vụ, tài sản của các cá nhân và doanh nghiệp. Thông qua cung ứng tiền tệ mà quan hệ cung – cầu vốn trên thị trường sẽ được điều tiết.
Khi lượng tiền đưa vào lưu thông nhiều hơn thì lãi suất cho vay cũng như lãi suất tái chiết khấu sẽ giảm. Việc này sẽ khiến gia tăng nhu cầu tìm kiếm các tài sản tài chính đầu tư khác hiệu quả hơn. Mặt khác, khi lãi suất cho vay giảm xuống sẽ kéo theo lãi suất chiết khấu của tài sản tài chính giảm làm giá tài sản tài chính tăng, nên lúc này tài sản tài chính lại trở nên hấp dẫn. Ngược lại, khi chính sách tiền tệ thắt chặt thì lãi suất sẽ cao do lượng tiền lưu thông giảm xuống. Điều này sẽ khiến lượng vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán giảm và hệ lụy tất yếu là giá cổ phiếu sẽ giảm theo.
Lãi suất
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm trên nguồn vốn ban đầu hay cái giá hay chi phí mà bạn phải trả để đổi lại quyền được sử dụng nguồn vốn đó trong 1 khoảng thời gian. Lãi suất là một trong những tác nhân chính ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế.
Khi lãi suất giảm, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư, từ đó hoạt động kinh doanh của công ty sẽ thuận lợi và mang về lợi nhuận cho doanh nghiệp và kéo theo cổ phiếu tăng giá. Ngược lại, khi lãi suất tăng, các công ty sẽ hạn chế vay hơn dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Điều này cũng đồng nghĩa lợi nhuận thu về sẽ ít hơn và giá cổ phiếu sẽ giảm.
Truyền thông
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào đang có cổ phiếu trên sàn giao dịch họ rất ngại những thông tin truyền thông xấu. Giá cổ phiếu cũng sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các thông tin truyền thông về doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp đang có cổ phiếu trên sàn nhưng vướng phải những tin tức truyền thông xấu (ví dụ như trốn thuế, sản phẩm trục trặc không tốt..v.v.) sẽ khiến niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp bị giao động, nhà đầu tư sẽ ra sức bán để tránh rủi ro từ đó cổ phiếu doanh nghiệp đó sẽ có xu hướng giảm mạnh.
Có rất nhiều trường hợp giá cổ phiếu bị ảnh hưởng mạnh bởi các thông tin truyền thông. Do đó truyền thông cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu mà nhà đầu tư cần xem xét.
VNDirect: Cổ phiếu hóa chất “gặp khó” trong năm 2023? Chứng khoán VNDirect dự báo lợi nhuận ròng của các công ty hóa chất cơ bản sẽ sụt giảm trong 2023 do nhu cầu yếu ... |
Chứng khoán Việt Nam vẫn được xem xét khả năng nâng hạng vào tháng 9 tới Trong thông báo mới nhất, FTSE Russell vẫn giữ nguyên Việt Nam ở lại nhóm thị trường cận biên (Frontier) và tiếp tục nằm trong ... |
Thị trường chứng khoán ngày 31/3/2023: Tín hiệu kỹ thuật phiên chiều Tạp chí điện tử Kinh tế Chứng khoán Việt Nam dẫn nguồn Vietstock đưa ra những phân tích tín hiệu kỹ thuật phiên chiều ngày ... |
Diệp Oanh (t/h)
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|