Theo đó, nhóm ngân hàng tư nhân top đầu có tốc độ tăng trưởng cao nhất (khoảng 10%-12% so với đầu năm) và đã chạm trần tăng trưởng tín dụng Ngân hàng Nhà nước cấp trong nửa đầu năm.
Tuy nhiên, nhóm ngân hàng quốc doanh có kết quả kém tích cực nhất do ảnh hưởng tăng mạnh trích lập dự phòng. Còn nhóm ngân hàng tư nhân top trên tăng trưởng khá nhờ biên lợi nhuận NIM mở rộng và cắt giảm chi phí (MB, Techcombank, VPBank, ACB, TPBank).
Trong khi đó, nhóm ngân hàng tư nhân nhỏ hơn (như Viet Capital Bank, Kienlongbank) tăng trưởng lợi nhuận mạnh nhất nhờ một số khoản thu nhập bất thường hoặc/và giảm mạnh chi phí dự phòng.
Dù vậy, cũng cần lưu ý rằng, ngoại trừ số ít một số ngân hàng như VPBank, HDBank, kết quả quý 2/2020 của nhiều ngân hàng không khả quan đã tạo nền so sánh thấp, là tiền đề cho tăng trưởng cao trong nửa đầu năm nay.
Theo nhận định của IVS, do ảnh hưởng kéo dài của dịch bệnh, kết quả kinh doanh quý 3/2021 của toàn ngành sẽ có phần chững lại.
Đồng thời, với kỳ vọng dịch bệnh sẽ sớm được kiểm soát tại thời điểm đầu tháng 9 cùng tiến độ tiêm vaccine được đẩy mạnh, IVS dự đoán ngành ngân hàng sẽ có quãng bứt tốc cùng mùa cao điểm trong quý 4 giúp tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn nền tinh tế đạt 9%-10% cho cả năm 2021. Trong đó, khối ngân hàng tư nhân niêm yết tăng trưởng tín dụng trung bình 15%.
Lợi nhuận các nhóm ngân hàng phân hóa
Về mặt lợi nhuận, chuyên gia của IVS cho rằng sẽ tiếp tục có sự phân hóa giữa các nhóm ngân hàng quốc doanh, nhóm ngân hàng tư nhân dẫn đầu và nhóm ngân hàng tư nhân nhỏ.
Cụ thể, quy mô nhỏ cùng tập khách hàng tập trung giúp nhóm ngân hàng tư nhân nhỏ dễ dàng mở rộng quy mô tín dụng so với tổng tài sản và do đó đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng.
Ngược lại, nhóm ngân hàng quốc doanh lại là nhóm chịu áp lực từ nhiều phía, như: đẩy mạnh hỗ trợ khách hàng và giảm lãi suất theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước; các khách hàng lớn, số lượng nhiều và chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh khiến nguy cơ nợ xấu tăng cao; sự kém linh động hơn về số hóa, độ phủ chi nhánh lớn khiến chi phí hoạt động vẫn ở mức cao; biến động nhân sự tại VietinBank hay Vietcombank cũng sẽ đến sự thay đổi về chiến lược/quan điểm tiếp cận rủi ro của ngân hàng.
Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân có số dư nợ khoảng 200.000-400.000 tỷ đồng như Techcombank, MB, VPBank, VIB, Sacombank cũng có sự phân hóa nhất định.
Theo IVS, Techcombank và MB có triển vọng sáng hơn nhờ cải thiện được chất lượng tài sản cùng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Phân khúc hoạt động cũng bền vững, ít chịu ảnh hưởng ngắn hạn hơn so với VPBank khi nhiều khách hàng của ngân hàng cũng như FE Credit chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
IVS dự báo biên lợi nhuận NIM nửa cuối năm 2021 dự kiến giảm trung bình 0,2-0,3 điểm phần trăm do các gói hỗ trợ cắt giảm lãi suất cùng với dư địa giảm chi phí huy động không còn nhiều.
Ở khía cạnh dự phòng, chi phí dự phòng của các ngân hàng, đặc biệt các ngân hàng lớn vẫn đang duy trì nền cao và tăng trích lập cho các khoản nợ xấu phát sinh cũng như trích lập theo lộ trình Thông tư 03.
Nhìn về triển vọng trung và dài hạn, IVS kỳ vọng tích cực hơn trong năm 2022 khi kinh tế Việt Nam có thể hồi phục sau đợt dịch này, đặc biệt sau khi phần lớn dân số đã được tiêm vaccine và kỳ vọng vào mức miễn dịch cộng đồng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng theo đó được kỳ vọng ở mức 14% nhờ hồi phục các hoạt động kinh doanh, tiêu dùng.
Trong bối cảnh dịch bệnh rất khó kiểm soát tốt và kinh tế hoạt động cầm chừng như hiện tại, IVS cho rằng Ngân hàng Nhà nước sẽ nâng mặt bằng lãi suất kể từ năm 2023 trong kịch bản tích cực khi Covid-19 đã được kiểm soát tốt trên toàn cầu cũng như Việt Nam đạt được miễn dịch cộng đồng.
Linh Đan
Theo Tạp chí Kinh tế Chứng khoán Việt Nam
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|