Nhiều nghịch lý trong khơi thông nguồn lực phục hồi kinh tế phát triển

(Banker.vn) Cấu trúc phát triển nền kinh tế nước ta đang chuyển từ thời đại kinh tế vật thể - thủ công sang kinh tế số, công nghệ cao, nhưng vẫn còn nhiều "nghịch lý" trong khơi thông nguồn lực để nền kinh tế sớm phục hồi và bứt phá phát triển.

Kinh tế đất nước đang từng bước qua khó khăn

Phát biểu tại phiên thảo luận chuyên đề “Tăng cường nội lực, khơi thông nguồn lực, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó” tại diễn đàn kinh tế - xã hội Việt nam 2023, PGS. TS. Trần Đình Thiên - Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng quá trình thay đổi của nền kinh tế đang diễn ra nhanh chưa từng thấy, mang tính hệ thống và rất căn bản. Nó tạo ra những cơ hội và thách thức khác thường, đặc biệt là cho những nước đi sau.

Cũng theo PGS. TS. Trần Đình Thiên - Viện Kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh phát triển chung, Việt Nam ở trong một tình thế phát triển có nhiều nét khác biệt, thậm chí khác thường.

PGS. TS. Trần Đình Thiên phát biểu tại diễn đàn kinh tế - xã hội Việt Nam 2023.
PGS. TS. Trần Đình Thiên phát biểu tại diễn đàn kinh tế - xã hội Việt Nam 2023.

Việt Nam là quốc gia “đi sau” nhưng có độ mở cửa - hội nhập quốc tế cao trên mọi phương diện, nên không nằm ngoài xu thế toàn cầu. Thậm chí, vì một số lý do đặc thù, cả cơ hội và thách thức thời đại mà Việt Nam đối mặt là khá “khác thường”. Ở góc độ kinh tế là lĩnh vực được coi là điển hình vì gắn liền với độ mở cửa cao, nền kinh tế Việt Nam có đặc trưng nổi bật là “đi sau, tụt hậu và yếu kém”, trong khi cách lựa chọn định hướng phát triển kinh tế thị trường lại đậm tính “bản sắc”.

Sau 3 năm trải qua đại dịch COVID-19, nền kinh tế vượt qua được theo một logic “nghiệt ngã” không hoàn toàn giống nhiều nước khác. “Nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng vững, tạo được đà và thế tăng trưởng - phát triển nhìn chung là tích cực”, PGS. TS. Trần Đình Thiên cho hay. Các con số phản ánh thành tích tăng trưởng - ổn định kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư nước ngoài, đặt trong sự so sánh quốc tế, là minh chứng tốt cho nhận định này.

Những thành tích kinh tế vĩ mô mà Việt Nam đạt được trong những năm qua đều chứng tỏ “năng lực trụ hạng”, khả năng “đối mặt các cơn gió ngược” rất ấn tượng của nền kinh tế Việt Nam.

“Việt Nam thật sự xứng đáng với lời khen tặng “là ngôi sao sáng giữa bầu trời kinh tế thế giới ảm đạm năm 2020” cũng như đánh giá tích cực của cộng đồng thế giới về sức hấp dẫn đầu tư và triển vọng sáng sủa hiện nay”, PGS. TS. Trần Đình Thiên nói.

Những nghịch lý của nền kinh tế

Tuy nhiên, PGS. TS. Trần Đình Thiên cho rằng quá trình thực tiễn, có hai vấn đề lớn đặt ra. Thứ nhất, xu hướng suy giảm động lực tăng trưởng kinh tế liên tục và kéo dài. Trong gần 40 năm đổi mới, dù mức tăng trưởng bình quân không thấp, song cứ sau mỗi giai đoạn 10 năm, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam lại bị giảm gần 1,0% tốc độ bình quân. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu nào giải thích xu hướng này một cách có hệ thống và mang tính thuyết phục cao. Thứ hai, nghịch lý của quá trình phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam thường chứa đựng “nghịch lý” đó là phát triển doanh nghiệp.

"Doanh nghiệp Việt Nam giỏi chống chịu, sống dai nhưng chậm lớn, khó trưởng thành” PGS. TS. Trần Đình Thiên nói.

Nhận định này không hẳn là nghịch lý, thậm chí, nó còn thuận lý lịch sử, giống như nhận định “ai giỏi chịu khổ thì khó trở thành giàu”, PGS. TS. Trần Đình Thiên nhận xét.

Đối với các doanh nghiệp Việt, tuy quá trình chuyển đổi kinh tế chưa lâu, song có những đặc điểm phát triển khác thường. Đó là những doanh nghiệp có năng lực chống chịu và sinh tồn phi thường.

PGS. TS. Trần Đình Thiên dẫn chứng một trong những bằng chứng rõ ràng, thuyết phục của nhận định đó chính là thực tế hiếm có nơi nào trên thế giới mà các doanh nghiệp phải trả giá vốn (lãi suất) cao như ở Việt Nam - thường là gấp 2 - 3 lần các nền kinh tế thị trường “bình thường” trên thế giới, chưa kể các khoản “chi phí giao dịch”, cũng thường là cao vượt trội. Việc trả giá vốn cao ở Việt Nam không diễn ra trong một thời gian dài trường kỳ hàng chục năm. Với gánh nặng chi phí như vậy, trong khi trình độ lao động còn thấp và thực lực yếu, doanh nghiệp Việt khó có thể tồn tại trong môi trường kinh tế “mở”.

PGS. TS. Trần Đình Thiên đặt câu hỏi, vậy tại sao với năng lực “chống chịu” và “trụ hạng” hiếm có như vậy mà đa số doanh nghiệp Việt mãi cứ là những thực thể nhỏ bé và yếu kém, cứ “chậm lớn”, “khó lớn”, “ngại lớn”, khi “li ti hóa” trở thành xu hướng xuyên suốt quá trình phát triển của doanh nghiệp Việt. Từ góc nhìn này, PGS. TS. Trần Đình Thiên cho rằng, nếu đo sự phát triển doanh nghiệp theo logic “chạy tiếp sức”, sẽ thấy vấn đề tuổi thọ của doanh nghiệp Việt là đáng lo ngại.

Theo thống kê, hàng năm, số doanh nghiệp “rút khỏi thị trường” xấp xỉ 70 - 75% số “đăng ký thành lập”. Đây là một tỷ lệ không bình thường. Qua đó cho thấy số doanh nghiệp Việt “sống thọ” không nhiều. Một bộ phận lớn doanh nghiệp “chưa kịp lớn” đã “ra đi”.

Đối ngược lại khả năng sinh tồn cao của doanh nghiệp, điều đáng báo động là chất lượng thấp, năng lực cạnh tranh quốc tế yếu của doanh nghiệp Việt Nam. Tình thế “nghịch lý” này càng bộc lộ rõ rệt hơn trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2023.

Năm 2023, số doanh nghiệp Việt thành lập mới liên tục giảm trong khi số “rút khỏi thị trường” tăng mạnh. Tám tháng đầu năm 2023, tỷ lệ doanh nghiệp “rút khỏi thị trường” (124.700) so với số doanh nghiệp “mới thành lập” và “gia nhập lại” (149.400) đạt xấp xỉ 84%, cao vượt trội mức 68,7% của năm 2022.

Trong 8 tháng đầu năm, tính bình quân mỗi tháng có 18.600 doanh nghiệp lập mới và tái gia nhập thị trường trong khi 15.600 doanh nghiệp “rút khỏi thị trường”, tổng lượng vốn đăng ký giảm 19,8%, phản ánh xu thế quy mô nhỏ dần của doanh nghiệp mới thành lập, đồng nghĩa với xu thế “li ti hóa” doanh nghiệp Việt tăng lên.

Xu thế phát triển doanh nghiệp chậm lại và khó khăn hơn trong thời gian gần đây phản ánh một tình thế mới, chưa từng thấy trong gần 40 năm đổi mới của Việt Nam.

Nền kinh tế “khát vốn” nhưng lại khó hấp thụ vốn

Đến hết tháng 8/2023, giải ngân đầu tư công, nỗ lực “bơm vốn cho nền kinh tế” của Chính phủ - được cải thiện rõ rệt so với các năm trước. Tuy nhiên, so với yêu cầu, mức độ giải ngân vẫn chậm, mới đạt 39,6% kế hoạch.

Trong khi đó, kênh tín dụng, mức tăng trưởng chỉ đạt 5,5% trong khi mục tiêu cả năm là tăng 14%.

Mức tăng trưởng tín dụng và giải ngân vốn đầu tư công thấp là điều gây bất ngờ trong bối cảnh đa số doanh nghiệp đang “đói vốn, khát vốn”. Chính vì vậy, trong những tháng đầu năm 2023, Chính phủ đã nỗ lực đưa ra nhiều chính sách và giải pháp mạnh hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp thoát khỏi tình thế khó khăn.

Cộng lực với Chính phủ, hệ thống ngân hàng cũng đã 4 lần hạ lãi suất, áp dụng nhiều giải pháp nới lỏng điều kiện vay vốn, cho dù áp lực nợ xấu, lạm phát, tỷ giá hối đoái và cả áp lực “phải đẩy mạnh cho vay” tiếp tục tăng.

Nền kinh tế khát vốn nhưng không hấp thụ được vốn; nhiều doanh nghiệp “đói vốn” nhưng lâm vào tình thế “không thể, không dám và không cần” vay vốn, tùy theo hoàn cảnh mỗi doanh nghiệp. Đây thực sự là một nghịch cảnh phát triển.

Theo: Kinh Tế Chứng Khoán
    Bài cùng chuyên mục