Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (đã được bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định mục tiêu của thế kỷ XXI là toàn Đảng, toàn dân phải ra sức phấn đấu, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Nội dung của CNH, HĐH đất nước đã liên tục được bổ sung, phát triển qua các giai đoạn, được Đảng xác định là sự nghiệp toàn dân, toàn xã hội với sự tham gia của mọi lĩnh vực và mọi thành phần kinh tế. Ngành ngân hàng luôn đồng hành cùng đất nước trong chặng đường 35 năm đổi mới và có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
I. Những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện chủ trương CNH, HĐH đất nước của ngành ngân hàng qua 35 năm
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta tiến hành từ Đại hội VI, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước luôn được đặt vào vị trí trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa VII là hội nghị dành riêng cho “Phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Từ đó đến nay, chủ trương CNH, HĐH đất nước liên tục được đổi mới cả về nhận thức và lý luận qua các kỳ Đại hội. Tới Đại hội XIII (2021), trước những ảnh hưởng to lớn của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0), Đảng ta xác định mục tiêu “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.
Ngành ngân hàng luôn đồng hành cùng đất nước trong chặng đường 35 năm đổi mới và có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong hệ thống các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước qua các kỳ Đại hội, nhiệm vụ chính trị của ngành ngân hàng đã được Đảng xác định rõ trên cả 3 khía cạnh: (i) là một ngành dịch vụ trong nền kinh tế, ngành ngân hàng là đối tượng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; (ii) là một chủ thể góp phần kiến tạo môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH và (iii) là huyết mạch tài chính của nền kinh tế, hỗ trợ đắc lực cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Quán triệt sâu sắc các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng nêu trên, ngành ngân hàng đã chủ động xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm phù hợp với từng giai đoạn phát triển, góp phần thực hiện các mục tiêu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước qua 35 năm đổi mới.
1.1 Ngành ngân hàng là một ngành dịch vụ trong nền kinh tế - đối tượng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
Cương lĩnh năm 1991 được thông qua tại Đại hội VII (1991) xác định “Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.” Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa VII xác định nhiệm vụ: “…Phát triển và hiện đại hoá từng bước các loại dịch vụ thông tin, kỹ thuật, thương mại, tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm, tư vấn pháp lý, phục vụ sinh hoạt..., góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả.”[1]
Kể từ Nghị quyết 07 Hội nghị Trung ương 7 khóa VII đến Báo cáo chính trị các kỳ Đại hội Đảng khóa VIII, IX, X, XI, XII, XIII, ngành ngân hàng đã được xác định là một trong những lĩnh vực trọng yếu, có giá trị gia tăng cao, cần tập trung nguồn lực để phát triển mạnh, đa dạng, vững chắc, hiện đại và nâng cao chất lượng. Trong bối cảnh CMCN 4.0 hiện nay, Đại hội XIII (2021) đã xác định “Phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao... Hiện đại hoá và mở rộng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, dịch vụ văn hoá, thể thao,... Tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế”[2] và “Phát triển các loại hình dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và công nghệ thông tin, logistics và vận tải, phân phối... Quy hoạch xây dựng hạ tầng thanh toán số quốc gia theo hướng đồng bộ, thống nhất, dùng chung, tận dụng và khai thác có hiệu quả hạ tầng mạng lưới viễn thông để triển khai các dịch vụ thanh toán cho người dân với chi phí thấp”[3].
Ngành ngân hàng đã được xác định là một trong những lĩnh vực trọng yếu, có giá trị gia tăng cao, cần tập trung nguồn lực để phát triển mạnh, đa dạng, vững chắc, hiện đại và nâng cao chất lượng.
Thực hiện nhiệm vụ trên, ngành ngân hàng đã khẩn trương triển khai nhiều biện pháp quyết liệt, phù hợp về nguồn lực, về cơ chế chính sách,... thực hiện các chương trình tái cơ cấu để giải quyết kịp thời những vấn đề bất cập, xây dựng hệ thống ngân hàng thích ứng với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò của một ngành dịch vụ trọng yếu trong nền kinh tế. Trong đó nổi bật là:
- Khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng không ngừng được hoàn thiện theo hướng tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập – là cơ sở quan trọng để ngành ngân hàng thực hiện tốt chức năng cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng cho nền kinh tế.
- Mô hình tổ chức của hệ thống ngân hàng được đổi mới mạnh mẽ, trong đó việc hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, tách bạch hoạt động quản lý và hoạt động kinh doanh được xem là mũi đột phá trong các chương trình tái cơ cấu – nhờ đó ngành ngân hàng thực hiện các hoạt động dịch vụ từng bước tuân thủ theo các nguyên tắc của thị trường...
- Các TCTD với tư cách là các chủ thể cung cấp trực tiếp các sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng trên thị trường đã không ngừng lớn mạnh, thực hiện có hiệu quả chức năng trung gian huy động và cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ đó đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chất lượng tín dụng được cải thiện, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD được duy trì dưới mức 3%.
- Hệ thống ngân hàng đã đảm nhận tốt vai trò trung tâm thanh toán quốc gia và đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về dịch vụ, tiện ích ngân hàng đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hệ thống thanh toán quốc gia và hệ thống thanh toán nội bộ của các TCTD[4] đã hình thành mạng lưới thanh toán phủ khắp toàn quốc, đáp ứng nhu cầu thanh toán nhanh, an toàn và tin cậy[5], góp phần quan trọng thay đổi thói quen thanh toán bằng tiền mặt trong xã hội.
- Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại[6] đã phát triển ngày càng phong phú, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, giúp các TCTD không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước quốc tế hóa hoạt động ngân hàng, hội nhập với cộng đồng tài chính tiền tệ quốc tế.
- Hệ sinh thái số đã được quan tâm, tạo điều kiện phát triển, mối quan hệ hợp tác giữa ngân hàng và các tập đoàn công nghệ lớn và các công ty công nghệ tài chính, các công ty trung gian thanh toán được khuyến khích mở rộng để đem lại trải nghiệm và nhiều lợi ích thiết thực cho khách hàng.
1.2 Ngành ngân hàng là một chủ thể góp phần kiến tạo môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH
Ngay từ những ngày đầu đổi mới, ngành ngân hàng được xác định là một ngành có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng môi trường vĩ mô ổn định cho nền kinh tế. Trong 10 năm gần đây khi nền kinh tế vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức từ trong nước và quốc tế, các kỳ Đại hội XII (2015), XIII (2021) liên tục xác định nhiệm vụ của ngành ngân hàng “Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp hài hoà với các chính sách khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối”[7].
Trên cơ sở đó, trong 35 năm phát triển cùng đất nước, ngành ngân hàng đã làm tốt các nhiệm vụ trên, cụ thể:
- Điều hành CSTT đã đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Từ những nhận thức đúng đắn trong việc chấm dứt sử dụng nguồn vốn phát hành để bù đắp thâm hụt ngân sách[8]; chấm dứt tài trợ tràn lan vốn tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ[9]; thực hiện đổi mới căn bản cơ chế lãi suất từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương,... đã tạo nền tảng cơ bản thuận lợi cho ngành ngân hàng thực hiện vai trò kiểm soát lạm phát, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, các công cụ điều hành CSTT, đặc biệt là công cụ lãi suất, công cụ tỷ giá liên tục được đổi mới, hoàn thiện theo nguyên tắc thị trường đã giúp cho tính chủ động trong kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ của NHNN ngày càng nâng cao. Nhờ đó, lạm phát phi mã những năm 1986 – 1991, hay lạm phát cao ở mức 02 con số trong những năm 1992 – 1995 và 2008, 2011 đã nhanh chóng được kiểm soát, ngày càng nâng cao tính ổn định của tỷ lệ lạm phát hàng năm theo mục tiêu đề ra. Từ năm 2016 đến nay, lạm phát bình quân luôn được kiểm soát ở mức dưới 4%, theo đúng chỉ tiêu của Quốc hội đề ra.
Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp hài hoà với các chính sách khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối”
- Chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá đã được cải tiến từng bước, từ cơ chế đa tỷ giá đã tiến tới chế độ một tỷ giá, hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường, diễn biến tỷ giá trên thị trường quốc tế của một số nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ đầu tư lớn với Việt Nam với mốc thay đổi đáng chú ý vào năm 1999[10] và năm 2016[11]. Cơ chế điều hành tỷ giá trung tâm hiện nay cùng với các biện pháp điều hành phù hợp (lãi suất, thị trường mở,...) cho phép tỷ giá phản ánh tương đối đầy đủ mối quan hệ giữa VNĐ với ngoại tệ của các nước có quan hệ thương mại, đầu tư, vay nợ với Việt Nam; tỷ giá đã phản ánh sát hơn sức mua đối ngoại của đồng VNĐ, góp phần khuyến khích xuất khẩu, tạo niềm tin và hỗ trợ cho việc giữ vị thế của VNĐ, góp phần hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của những biến động tài chính – tiền tệ quốc tế, tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư phát triển, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam liên tục được củng cố, tăng từ mức 23 triệu USD trong những năm đầu đổi mới lên gấp hàng nghìn lần, tương đương khoảng 17 tuần nhập khẩu, cao hơn mức tối thiểu theo thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, chính sách quản lý ngoại hối đã từng bước được tự do hóa, phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế và hướng dần theo thông lệ quốc tế, tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại, đầu tư. Chủ trương chống đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế được thực hiện hiệu quả, thiết lập lại trật tự trong hoạt động kinh doanh và đầu tư vàng, tăng cường vai trò quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho thị trường hoạt động thông suốt[12]. Nhờ đó, nguồn vốn bằng ngoại tệ và vàng đã được chuyển hóa thành nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, chính sách quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài cũng tạo điều kiện thu hút các nguồn vốn đầu tư, góp phần hỗ trợ chính sách CNH, HĐH đất nước. Việc từng bước xóa bỏ cơ chế kết nối ngoại tệ từ năm 2003[13], việc tự do hóa các giao dịch vãng lai, từng bước nới lỏng kiểm soát giao dịch vốn[14] một cách thận trọng, phù hợp; hình thành các quy chế mua bán trao đổi hàng hóa thương mại giữa Việt Nam và các nước có chung biên giới đã thúc đẩy quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nếu như những năm đầu đổi mới, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được chỉ dao động quanh mức vài tỷ USD, thì gần đây lượng vốn đầu tư nước ngoài đã tăng lên đến con số vài chục tỷ USD, trong đó năm 2008 đạt kỷ lục lên đến trên 70 tỷ USD vốn đăng ký, góp phần thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Cùng với những thay đổi trong hoạch định chính sách và điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối Việt Nam đã có những bước phát triển phù hợp[15], tạo điều kiện tăng cường công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ và công tác điều hành tỷ giá.
1.3 Ngành ngân hàng là huyết mạch tài chính của nền kinh tế, hỗ trợ đắc lực cho quá trình CNH, HĐH đất nước
Trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, vốn luôn là một nhân tố đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, với vai trò huyết mạch tài chính của nền kinh tế, ngành ngân hàng rất chú trọng đến phát triển hệ thống, đổi mới cơ chế, chính sách để đẩy mạnh việc huy động và phân bổ vốn hiệu quả phù hợp với chủ trương CNH, HĐH theo sát định hướng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn.
Ngay từ giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, ngành ngân hàng đã chủ động, tích cực thay đổi cơ chế chính sách tín dụng, chính sách lãi suất nhằm khắc phục được những yếu kém, nâng cao được hiệu quả trong việc huy động và phân bổ vốn. Trong đó, đáng chú ý là việc tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, thành lập và không ngừng nâng cao năng lực hoạt động của đơn vị tín dụng chuyên biệt phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách[16]. Nếu như trong những năm 1990, tổng dư nợ tín dụng bình quân mới ở mức 23% GDP thì hiện nay đã đạt hơn 120% GDP – là mức cao nếu so với các nước trong khu vực, đóng góp vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh quy mô thị trường chứng khoán chưa phát triển bắt kịp với nhu cầu của nền kinh tế. Quy mô tín dụng tăng lên nhanh chóng về giá trị tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm, đáp ứng được nhu cầu vốn trong nền kinh tế, đặc biệt trong những giai đoạn có nhiều khó khăn, thách thức[17]. Việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng ngày càng thuận lợi, mở rộng, đa dạng về đối tượng, thành phần và các ngành nghề kinh tế.
Tín dụng ngân hàng ngày càng khẳng định được vai trò trụ cột trong việc phân bổ vốn phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và các nội dung quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước qua các kỳ Đại hội. Tín dụng ngân hàng đã góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, đảm bảo an sinh xã hội, hướng tới phát triển bền vững; Hỗ trợ phát triển công nghiệp, xây dựng, kết cấu hạ tầng, dịch vụ gắn với phát triển kinh tế tri thức và nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Hỗ trợ phát triển kinh tế vùng.
Tín dụng ngân hàng ngày càng khẳng định được vai trò trụ cột trong việc phân bổ vốn phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và các nội dung quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước qua các kỳ Đại hội.
Trong 10 năm gần đây, tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng trưởng bình quân 18,59% - cao hơn mức tăng 18,29% của tín dụng chung trong toàn nền kinh tế[18], hiện chiếm tỷ trọng khoảng 25,07% tổng dư nợ nền kinh tế với khoảng 14,3 triệu khách hàng còn dư nợ. Bên cạnh đó, nguồn vốn tín dụng chính sách đã được tiếp cận đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước, đã có 23,7 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn với doanh số cho vay các chương trình tín dụng chính sách đạt 589.231 tỷ.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng từ 28% – 39% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế, với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 10,9%, cơ cấu tín dụng ngành công nghiệp phù hợp xu hướng phát triển của ngành trong giai đoạn vừa qua. Bên cạnh đó, vốn tín dụng cho các ngành thương mại, dịch vụ cũng có xu hướng gia tăng, dư nợ tín dụng trong lĩnh vực này đã có mức tăng trưởng ổn định, bình quân đạt 17,43% trong giai đoạn hiện nay.
Tại 2 vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng, dư nợ tín dụng hiện chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ tín dụng các vùng kinh tế, giao động trong khoảng từ 32% – 36% từ năm 2018 – 2021. Tiếp đến là vùng Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long, dư nợ tín dụng chiếm khoảng từ 8% – 14%, trong khi đó tại vùng núi Tây Nguyên và vùng trung du miền núi phía Bắc, con số này giao động từ 4% – 5%. Tỷ lệ dư nợ tín dụng của các vùng kinh tế giữ tỷ lệ khá ổn định trong nhiều năm trở lại đây.
II. Các thành tựu nổi bật, hạn chế, nguyên nhân trong việc thực hiện chủ trương CNH, HĐH đất nước của ngành ngân hàng qua 35 năm
Trong 35 năm qua, ngành ngân hàng đã đồng hành tích cực cùng với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từng bước giải quyết những khó khăn, thách thức trong giai đoạn đầu của đổi mới cũng như một số giai đoạn nhất định trước những ảnh hưởng từ môi trường kinh tế quốc tế, những vấn đề yếu kém phát sinh trong quá trình phát triển,… hệ thống ngân hàng Việt Nam trải qua không ít những giai đoạn khó khăn, nhưng về cơ bản đã hoàn thành được các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao với những thành tựu nổi bật, đồng thời cũng nhận diện được những hạn chế để tiếp tục khắc phục, hoàn thiện, cụ thể như sau:
2.1 Những thành tựu nổi bật:
- Điều hành CSTT – ngân hàng từng bước đã đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức thấp hơn mục tiêu trong những năm gần đây[19], ổn định hệ thống tiền tệ, góp phần tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, nhất là trong những giai đoạn nền kinh tế gặp khó khăn[20], không ngừng củng cố dự trữ ngoại hối Nhà nước. CSTT ngày càng khẳng định được vai trò là một trong những chính sách vĩ mô trọng yếu.
- Đã thực hiện tốt vai trò huyết mạch tài chính trong nền kinh tế. Cơ chế, chính sách phân bổ vốn tín dụng ngân hàng ngày càng hiệu quả, an toàn và phù hợp với chủ trương từng bước giảm dần tỷ lệ vốn đầu tư từ tín dụng ngân hàng, hỗ trợ đổi mới mô hình kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhờ đó, nhu cầu vốn trong nền kinh tế được đáp ứng, hỗ trợ tích cực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ các ngành sản xuất vượt qua các giai đoạn khó khăn, đồng thời tham gia tích cực vào công tác xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy tài chính toàn diện.
Điều hành CSTT – ngân hàng từng bước đã đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức thấp hơn mục tiêu trong những năm gần đây, ổn định hệ thống tiền tệ, góp phần tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi...
- Đã đảm nhận tốt vai trò trung tâm thanh toán quốc gia, hình thành nên một mạng lưới thanh toán trong toàn quốc, thường xuyên được nâng cấp theo hướng tập trung, hiện đại, phong phú, đảm bảo kết nối thông suốt và an toàn, ngày càng đáp ứng yêu cầu thanh toán và nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số.
- Luôn chủ động, nỗ lực phát triển phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng, đóng vai trò đi đầu trong việc hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng được hoàn thiện theo hướng hiện đại, phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN, đã dần tiệm cận các thông lệ quốc tế.
- Có vai trò quan trọng trong việc kiến tạo các thị trường tài chính, từ việc hình thành thị trường liên ngân hàng nội tệ và ngoại tệ, đến việc tạo nền tảng cho sự ra đời của thị trường chứng khoán và thúc đẩy hoạt động phát hành trái phiếu Chính phủ, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu được thực hiện nghiêm túc theo tinh thần chỉ đạo tại các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ. Các đợt tái cơ cấu hệ thống các TCTD đã có được các kết quả nhất định, sự ổn định, an toàn hệ thống các TCTD được giữ vững, năng lực tài chính, quy mô hoạt động của các TCTD từng bước được cải thiện góp phần quan trọng trong việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Các đợt tái cơ cấu hệ thống các TCTD đã có được các kết quả nhất định, sự ổn định, an toàn hệ thống các TCTD được giữ vững, năng lực tài chính, quy mô hoạt động của các TCTD từng bước được cải thiện...
- Luôn chủ động, tiên phong trong hành trình chuyển đổi số của đất nước. Trong bối cảnh CMCN 4.0, ngành ngân hàng đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ và áp dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, phương thức quản lý hiện đại trong công tác chỉ đạo, điều hành, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng chất lượng, đa tiện ích đáp ứng nhu cầu phát triển.
- Quan hệ đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, không ngừng nâng cao tiếng nói, vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong các diễn đàn đối thoại kinh tế và trong hệ thống tài chính quốc tế, khu vực.
2.2 Những hạn chế và nguyên nhân chủ yếu
Từ thực tiễn thực hiện các nhiệm vụ của ngành ngân hàng góp phần thúc đẩy CNH, HĐH đất nước, có thể rút ra một số hạn chế và nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Cơ chế hoạch định, điều hành CSTT của NHNN với tư cách là NHTW, cùng với các công cụ chính sách và thị trường tiền tệ còn đang trong quá trình tiếp tục hoàn thiện, chưa phát huy hết vai trò và tác dụng trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp vững chắc.
- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng làm cho những diễn biến kinh tế, chính trị,... phức tạp và khó lường ở bên ngoài đã có tác động trực tiếp và nhanh chóng đến môi trường kinh tế trong nước, dẫn đến việc kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô trong nước cũng trở nên khó khăn và phức tạp hơn.
- Nhu cầu vốn để thực hiện CNH, HĐH đất nước là rất lớn trong khi thị trường vốn chậm phát triển đã làm gia tăng áp lực cho hệ thống ngân hàng trong việc cung ứng vốn tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn. Điều này gây ra rủi ro trực tiếp cho hệ thống ngân hàng.
- Hệ thống các TCTD phát triển chưa bền vững. Năng lực quản trị và năng lực tài chính còn nhiều hạn chế, chất lượng hoạt động không đồng đều, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Xử lý nợ xấu mặc dù đã đạt được các kết quả bước đầu nhưng nguy cơ nợ xấu gia tăng còn rất lớn, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế do tác động của dịch bệnh Covid-19.
- Khu vực doanh nghiệp nhìn chung vẫn còn có hạn chế về năng lực quản trị và tài chính, tính minh bạch chưa cao, hoạt động sản xuất – kinh doanh một số ngành, khu vực đặc thù luôn đối mặt với rủi ro do thiên tai, bệnh dịch,... dẫn tới rủi ro trong quá trình vay và sử dụng vốn vay ngân hàng.
- Công tác thanh tra giám sát chưa theo kịp với sự phát triển của hệ thống, khuôn khổ thể chế cho hoạt động quản lý, thanh tra, giám sát ngân hàng còn một số hạn chế nhất là các văn bản pháp lý và cơ chế, chính sách hỗ trợ tái cơ cấu, xử lý nợ xấu còn thiếu, tồn tại nhiều bất cập và chậm được hoàn thiện, bổ sung kịp thời.
- Trong bối cảnh tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc CMCN 4.0, cơ sở pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng mặc dù liên tục được hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng số. Bên cạnh đó, sự đồng bộ và chuẩn hóa cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho sự kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số, cung ứng dịch vụ đa tiện ích cho khách hàng còn nhiều thách thức.
- Việc ứng dụng công nghệ trong ngành ngân hàng đã được quan tâm nhưng chưa đảm bảo được sự đồng bộ trong toàn hệ thống để tạo ra các bước đột phá và biến chuyển lớn trong toàn ngành. Việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại, có hàm lượng đổi mới sáng tạo cao phần lớn tập trung tại các ngân hàng lớn trong hệ thống, khả năng bao phủ trên toàn quốc còn hạn chế.
- Chất lượng của cán bộ ngân hàng vẫn có sự chênh lệch trong hệ thống, vẫn thiếu đội ngũ chuyên gia, đội ngũ cán bộ then chốt thực sự chuyên nghiệp có tầm khu vực và quốc tế, đội ngũ nhân sự có năng lực cao về công nghệ thông tin, chuyển đổi số; vẫn tồn tại các vấn đề về đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm thực thi công vụ ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý, gây tổn thất không nhỏ về vật chất và uy tín cho tổ chức.
- Sự phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành, giữa CSTT với Chính sách tài khóa (CSTK), các chính sách thương mại và đầu tư mặc dù đã có những bước tiến mới trong giai đoạn gần đây nhưng vẫn chưa đủ mạnh nên còn ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả và hiệu lực trong việc thực hiện CSTT, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách đặc thù hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp trong trường hợp cấp bách hay việc nâng cao năng lực tài chính và thực hiện cơ chế hỗ trợ cho các Ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTM NN).
III. Những vấn đề đặt ra và giải pháp, kiến nghị, đề xuất của ngành ngân hàng
3.1 Những vấn đề đặt ra qua 35 năm thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách về CNH, HĐH đất nước trong ngành ngân hàng
Những đóng góp của ngành ngân hàng đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã được khẳng định, tuy nhiên trong quá trình đó cũng đặt ra một số vấn đề cho những giai đoạn tiếp theo, đặc biệt khi bối cảnh kinh tế, chính trị trên thế giới đang có những thay đổi mạnh mẽ sau đại dịch Covid-19 và sự phát triển nhanh, mạnh của công nghệ và kinh tế số, cụ thể là:
- Ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục là vấn đề trọng tâm, cần thiết cho CNH, HĐH đất nước. Mặc dù đến nay, lạm phát đã được kiểm soát, ổn định tiền tệ đã được cải thiện, niềm tin vào giá trị đồng VNĐ đã được củng cố nhưng việc kiểm soát lạm phát ổn định, hỗ trợ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì vẫn là một thách thức lớn đối với CSTT. Đặc biệt trong bối cảnh áp lực lạm phát đang gia tăng mạnh trên toàn cầu, môi trường chính sách điều hành của NHTW các nước đang có xu hướng thắt chặt sau một giai đoạn nới lỏng thông qua các biện pháp phi truyền thống kéo dài.
Cuộc CMCN 4.0 đã đem đến nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức cho hoạt động ngân hàng.
- Nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước còn rất lớn, song năng lực cung ứng tín dụng ngân hàng cũng có những giới hạn nhất định, chủ yếu là cung ứng vốn ngắn hạn, một phần vốn trung và dài hạn trong khả năng cân đối nguồn vốn đầu vào. Việc mở rộng tín dụng quá mức có thể mang lại nhiều rủi ro và hệ lụy đối với bản thân hệ thống ngân hàng và đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn này vẫn tồn tại khi mà thị trường vốn còn phát triển chưa tương xứng với nhu cầu của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung ứng vốn chủ yếu, tỷ lệ tín dụng/GDP liên tục gia tăng ở mức cao, hệ thống ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với các rủi ro tài chính tiềm ẩn.
- Trong nền kinh tế thị trường, CSTT và CSTK là hai chính sách kinh tế vĩ mô trọng yếu. Sự phối hợp và vận hành đúng chức năng của từng chính sách một cách nhịp nhàng, đồng bộ có ý nghĩa rất lớn đối với điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Hiện nay, mặc dù sự phối hợp của hai chính sách này đã có những bước cải thiện mới tuy nhiên chưa đạt được vấn đề tối ưu cả về mặt lý thuyết và thực tiễn, cụ thể như việc xác định dư địa của từng chính sách, mức độ ưu tiên của các chính sách trong bối cảnh cụ thể,… Hiện một số giải pháp CSTT còn mang tính chất “tài khóa” như cho vay ưu đãi trong một số lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, cho vay người nghèo, an sinh xã hội,… đặc biệt từ năm 2020 đến nay, các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế đối phó với tác động của Covid-19 dựa nhiều vào CSTT sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoạt động an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng, tiềm ẩn rủi ro cung ứng vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Cuộc CMCN 4.0 đã đem đến nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức cho hoạt động ngân hàng. Sự xuất hiện của các sản phẩm tài chính công nghệ cao và xu hướng ứng dụng các công nghệ phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng số tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức trong công tác quản lý Nhà nước để đảm bảo sự ổn định tiền tệ, an toàn, an ninh mạng, ổn định tài chính và bảo vệ người tiêu dùng. Việc phát triển lĩnh vực công nghệ tài chính an toàn và hiệu quả là một nhiệm vụ khó, đặc biệt khi hành lang pháp lý cho việc phát triển và quản lý các sản phẩm dịch vụ ngân hàng số đang trong quá trình hoàn thiện, cơ sở hạ tầng dữ liệu dùng chung khó tiếp cận, mức độ am hiểu tài chính công nghệ chưa đồng đều trong hệ thống cũng như trên cả nước, tội phạm công nghệ ngày càng tinh vi đang có xu hướng gia tăng mạnh,…
- Các TCTD có cơ cấu và quy mô hoạt động lớn, phức tạp, có sự liên quan mật thiết với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, có tốc độ phát triển nhanh, đặc biệt trong bối cảnh CMCN 4.0. Trong khi đó, hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng gặp không ít khó khăn trong việc bắt kịp với tốc độ phát triển của hệ thống TCTD, trong việc phát hiện các rủi ro, vi phạm.
- Công tác tái cơ cấu các TCTD, xử lý nợ xấu, thanh tra giám sát hoạt động của các TCTD còn nhiều khó khăn về hành lang pháp lý, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý trong nền kinh tế, thiếu cơ chế hỗ trợ, bảo vệ cán bộ thanh tra, giám sát trong quá trình thực thi công vụ. Hơn nữa, hiệu quả của các chương trình tái cơ cấu các TCTD, của việc xử lý nợ xấu cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển, cải thiện của khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước; thị trường tài chính, thị trường bảo hiểm,…
3.2. Những giải pháp định hướng của ngành ngân hàng
Trên cơ sở xác định rõ những thành tựu, hạn chế và phân tích kỹ lưỡng bối cảnh kinh tế - xã hội trong và ngoài nước giai đoạn tiếp theo, Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã xây dựng các quan điểm và mục tiêu phát triển hệ thống ngân hàng trên cả 02 góc độ: hoạt động quản lý nhà nước của NHNN và hoạt động kinh doanh của các TCTD, với 06 nhóm giải pháp định hướng, đó là:
(i) Nâng cao hiệu quả của CSTT để kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, tài chính, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tích cực cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
(ii) Tăng cường vai trò trung gian tài chính hiệu quả cho nền kinh tế, đẩy mạnh huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng; đảm bảo cơ cấu dư nợ tín dụng ngành nghề, khu vực, lĩnh vực hợp lý, trong đó hướng dòng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên cho phát triển nhanh nền kinh tế và giải quyết vấn đề an sinh xã hội.
(iii) Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trên nền tảng công nghệ hiện đại gắn liền với đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán trong nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho việc chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy TTKDTM.
(iv) Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giám sát để duy trì sự ổn định hệ thống và giúp các TCTD phát triển an toàn, bền vững.
(v) Phát triển hệ thống các TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả, mở rộng cơ hội tiếp cận tài chính cho mọi tầng lớp dân cư, cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững trên cơ sở tiếp tục thực hiện có kết quả chương trình tái cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu theo lộ trình đặt ra.
(vi) Triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ như: tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế và pháp lý; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành ngân hàng; Phát triển thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối; Phát triển khoa học, công nghệ ngành ngân hàng, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyền thông, phối hợp thực hiện các chương trình giáo dục tài chính; Thực hiện tốt chương trình cải cách hành chính; Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng trên trường quốc tế; Tăng cường huy động/triển khai hiệu quả các chương trình, dự án, hỗ trợ tư vấn, kỹ thuật, kinh nghiệm... của các đối tác quốc tế và các tổ chức đa phương, song phương cho Việt Nam và ngành ngân hàng, trong đó tập trung vào các hỗ trợ kỹ thuật liên quan đến tài chính xanh, tài chính toàn diện, tài chính cơ sở hạ tầng, ngân hàng số, kết nối thanh toán khu vực...
Ngành ngân hàng đã cụ thể hóa các nhóm giải pháp định hướng trên thành những giải pháp cụ thể và chủ động, nỗ lực thực hiện để đạt được những mục tiêu đề ra. Trong quá trình thực hiện có tổ chức đánh giá, phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, điều chỉnh linh hoạt với yêu cầu của bối cảnh kinh tế - xã hội trong và ngoài nước.
3.3 Đề xuất, kiến nghị
Bên cạnh việc phát huy nội lực, để có thể tiếp tục thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn phát triển tới, ngành ngân hàng đề xuất, kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước như sau:
(i) Tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh, vươn tầm khu vực, phát huy tối đa vai trò huyết mạch của nền kinh tế, đóng góp đắc lực vào quá trình CNH, HĐH đất nước.
(ii) Chỉ đạo để tạo nhận thức thống nhất và giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra có liên quan trực tiếp đến hoạt động của hệ thống ngân hàng, cụ thể là một số vấn đề trọng tâm sau đây:
Nhất quán kiên trì và ưu tiên mục tiêu kiểm soát lạm phát nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế.
- Kịp thời bổ sung, làm rõ nội hàm và những tiêu chí của một nước công nghiệp hiện đại trong các Văn kiện đại hội Đảng và Nghị quyết phát triển kinh tế để định hướng cho quá trình phát triển và nâng cao hiệu quả đóng góp của các lĩnh vực, ngành kinh tế theo đúng mục tiêu đề ra, đặc biệt trong bối cảnh của CMCN 4.0. Cần xác định mục tiêu, nội dung, lộ trình thực hiện CNH, HĐH đất nước từ nay đến 2030 và tầm nhìn đến 2040 để các Bộ, ngành, địa phương xây dựng chương trình hành động cụ thể và triển khai đồng bộ.
- Nhất quán kiên trì và ưu tiên mục tiêu kiểm soát lạm phát nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế.
- Tiến hành đồng bộ các nội dung của tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025, tập trung khắc phục hạn chế của giai đoạn trước, tiếp tục hoàn thiện thể chế, giải pháp thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo nhằm tạo động lực cho việc tái cơ cấu các nhóm ngành trong nền kinh tế.
- Quan tâm sát sao quá trình triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu hệ thống các TCTD, đặc biệt đối với các đề xuất của NHNN về phương án tăng vốn chủ sở hữu của các NHTM NN, phương án xử lý các TCTD yếu kém; Cần có các biện pháp đủ mạnh, kịp thời để có các công cụ thực sự hữu hiệu nhằm giải quyết nợ xấu tồn đọng và hạn chế nợ xấu phát sinh như luật hóa cơ chế xử lý nợ xấu, tăng cường hiệu quả hoạt động của Công ty Quản lý tài sản (VAMC), phát triển thị trường mua bán nợ xấu,... Đồng thời, chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp chặt chẽ và tham gia hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu.
- Quan tâm sớm ban hành, hướng dẫn, bổ sung hành lang pháp lý hoàn chỉnh đối với các lĩnh vực chuyển đổi số, trước hết là Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng và đối với lĩnh vực tăng trưởng xanh, kinh tế xanh để các NHTM có căn cứ và chủ động trong việc triển khai các sản phẩm dịch vụ thế hệ mới, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Đồng thời, chỉ đạo hoàn thiện và sớm triển khai cơ sở dữ liệu dùng chung của quốc gia, hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến việc sử dụng chữ ký số điện tử từ xa trong các hoạt động ngân hàng,... tạo điều kiện cho các TCTD phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, an toàn.
- Phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng và nâng cao hiệu quả điều hành các chính sách, nhất là các chính sách kinh tế vĩ mô: CSTT, CSTK, chính sách thương mại, chính sách đầu tư, chính sách đất đai,...
(iii) Phát triển khu vực tài chính một cách toàn diện, ổn định và bền vững, tạo điều kiện để mọi doanh nghiệp và người dân đều có cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của các khu vực khác của nền kinh tế trong tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Như vậy, trong chặng đường 35 năm vừa qua, ngành ngân hàng đã không tách rời tiến trình phát triển chung của công cuộc đổi mới nền kinh tế quốc dân. Trong hầu hết các thành tựu lớn về CNH, HĐH đất nước mà nền kinh tế Việt Nam đạt được đều có sự đóng góp trực tiếp của ngành ngân hàng với tư cách là huyết mạch tài chính của nền kinh tế và là một trong những ngành giữ vai trò xung yếu trong tiến trình đổi mới và phát triển. Bối cảnh phát triển đến năm 2030 và những năm tiếp theo sẽ có nhiều thay đổi, vận hội và thách thức vẫn tiếp tục đan xen, thế và lực của kinh tế nước ta đã có nhiều bước tiến mới. Năng lực sản xuất và hiệu quả vận hành của nền kinh tế trong nước ngày càng cải thiện, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên,... tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước. Bên cạnh đó, cuộc CMCN 4.0 với sự xuất hiện của nhiều công nghệ mới đang dẫn đến những thay đổi quan trọng trong phương thức, cách thức, mô hình vận hành kinh tế cũng như những thói quen trong xã hội. Trong tiến trình đó, hệ thống ngân hàng sẽ tiếp tục phát huy các kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế, đi cùng đất nước vượt qua những thử thách để vừa tạo ra những nhân tố thúc đẩy nền kinh tế nhanh chóng chạm tới các mục tiêu đã đề ra, đồng thời tận dụng những cơ hội phát triển mới để không ngừng phát triển và hiện đại hóa ngân hàng. Và để làm được điều đó, ngành ngân hàng mong muốn tiếp tục nhận được sự chỉ đạo sát sao, sự quan tâm và tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước để hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh, vươn tầm khu vực, phát huy tối đa vai trò huyết mạch tài chính của nền kinh tế, đóng góp đắc lực vào quá trình CNH, HĐH đất nước từ nay tới năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
[2] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
[3] Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
[4] Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng quốc gia, Hệ thống thanh toán bù trừ tự động phục vụ các giao dịch thanh toán bán lẻ, hệ thống Core banking của các TCTD
[5] Thời gian thực hiện một giao dịch thanh toán hiện nay đã giảm xuống chỉ còn tính bằng giây trên phạm vi toàn quốc
[6] Thẻ ngân hàng, Internet Payment, Mobile Payment, Ví điện tử, thanh toán qua QR Code, Mobile money, thanh toán dịch vụ công trực tuyến
[7] Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025
[8] Quyết định số 03/NH-QĐ ngày 8/1/1991 của Thống đốc NHNN về ban hành thể lệ tín dụng của NHNN đối với ngân sách Nhà nước
[9] Quyết định số 04/NH-QĐ ngày 8/1/1991 và Quyết định số 23/NH-QĐ của Thống đốc NHNN về thể lệ tín dụng ngắn hạn, thể lệ tín dụng trung và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế
[10] Ngày 26/2/1999, NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và các NHTM được phép giao dịch với tỷ giá không vượt quá tỷ giá bình quân của ngày giao dịch gần nhất cộng trừ biên độ 0,1%
[11] Ngày 4/1/2016, NHNN chính thức áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt, xác định dựa trên cung, cầu ngoại tệ trên thị trường và giá trị của đồng nội tệ so với 08 đồng tiền tham chiếu
[12] Nghị định số 24/NĐ-CP đã giúp thị trường vàng đi vào hoạt động ổn định, đóng góp tích cực cho công tác ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối
[13] Quy định kết nối ngoại tệ từ mức 100% vào năm 1988 xuống mức 80% vào năm 1998 và 0% vào năm 2003
[14] Được quy định tại Pháp lệnh ngoại hối 2005
[15] Thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh năm 1991, đến hình thành được thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 1994
[16] Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo thành lập năm 1993 được phát triển thành Ngân hàng phục vụ người nghèo (năm 1995) và đổi tên thành Ngân hàng Chính sách xã hội (năm 2002)
[17] Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011-2015 là 6,18%; 2016-2019 là 7%; năm 2020-2021 trong điều kiện đại dịch Covid-19 vùng phát, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương lần lượt là 2,94% và 2,58%, trong khi đó tín dụng tăng trưởng bình quân trong từng giai đoạn lần lượt đạt 13,4%; 16%; 12,89%
[18] Từ năm 2017, số liệu dư nợ lĩnh vực nông nghiệp nông thôn bổ sung dư nợ của các QTND
[19] Lạm phát bình quân luôn được kiểm soát ở mức dưới 4% theo đúng chỉ tiêu mà Quốc hội đặt ra
[20] Giai đoạn lạm phát phi mã những năm đầu đổi mới, chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á 1998, khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu năm 2008; giai đoạn nhiều bất ổn 2011 – 2015; giai đoạn chịu tác động bởi đại dịch Covid-19
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|