Ngân hàng Việt Nam đối mặt với những thách thức nào trong năm 2023?

(Banker.vn) Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam vừa diễn ra, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia, đã chỉ ra ngân hàng Việt Nam năm 2023 sẽ đối mặt với 8 rủi ro, thách thức từ môi trường quốc tế cũng như nội tại nền kinh tế Việt Nam.

Cổ phiếu ngân hàng phân hoá phiên cuối tuần, HDB tăng vọt cùng thanh khoản vượt trội

Lãi suất tăng cao, người dân đổ xô gửi tiết kiệm

8 rủi ro, thách thức của ngân hàng Việt Nam

Thứ nhất, một số văn bản pháp lý về chuyển đổi số chậm ban hành hoặc gặp nhiều khó khăn khi triển khai như gói hỗ trợ lãi suất 2% thuộc Chương trình phục hồi. Tính đến hết tháng 10/2022, gói hỗ trợ lãi suất mới chỉ giải ngân được khoảng 23/16.035 tỷ đồng phân bổ năm 2022.

Nguyên nhân xuất phát từ việc khách hàng chưa thực sự quan tâm đến gói hỗ trợ do e ngại thanh, kiểm tra sau này; khó xác định chính xác đối tượng hỗ trợ vì có nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh hoạt động đa ngành nghề hoặc chưa đăng ký kinh doanh, và khó xác định được tiêu chí “có khả năng phục hồi” trong bối cảnh môi trường kinh doanh khó lường như hiện nay.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Thứ hai, dư địa chính sách tiền tệ đã bị thu hẹp. Đến hết tháng 11/2022, NHNN đã phải tăng lãi suất hai đợt (1%/đợt) để ổn định tỷ giá, trong khi các công cụ khác gần như đã sử dụng hết dư địa. Dự trữ ngoại hối hiện nay vừa mức khuyến nghị của IMF (3 tháng nhập khẩu).

Cùng với đó, theo nhóm nghiên cứu, việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng/giảm sẽ không đạt hiệu quả như kỳ vọng vì các ngân hàng thương mại (NHTM) còn phải tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo Thông tư 22/2019 của NHNN và biện pháp này thường áp dụng khi nền kinh tế gặp các cú sốc lớn. Biên độ giao dịch tỷ giá trung tâm cũng đã nới lên mức 5%...

Do vậy, với khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục tăng lãi suất 0,5 điểm % trong tháng 12/2022 và quý 1/2023, áp lực lãi suất và tỷ giá tăng còn khá lớn. Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục duy trì công cụ hạn mức tín dụng trong năm 2022-2023 để kiểm soát lạm phát mục tiêu và thanh khoản hệ thống ngân hàng, trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp ảm đạm, giải ngân đầu tư công còn chậm, khiến việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp còn khó khăn.

Thứ ba, hệ số an toàn vốn (CAR) của các NHTM Việt Nam cải thiện chậm và ở mức thấp so với khu vực. Tính đến tháng 6/2022, xét các ngân hàng áp dụng Thông tư 41/2016, hệ số an toàn vốn của của các NHTM nhà nước giảm nhẹ so với cuối năm 2021 từ mức 9% xuống 8,9%.

Ngược lại, các NHTM cổ phần tăng từ 11,9% lên 12%, và mức an toàn vốn này tương đối thấp khi so sánh với các nước trong khu vực, chưa kể các nước trong khu vực đã thực hiện áp dụng Basel 3 hoặc một phần của Basel 3, trong khi các NHTM Việt Nam mới đang trong giai đoạn triển khai Basel 2.

Mức đệm vốn của các TCTD ở mức thấp làm hệ thống ngân hàng dễ bị tác động tiêu cực từ các cú sốc bất lợi từ môi trường kinh doanh. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc tăng vốn của các NHTM (đặc biệt là các NHTM Nhà nước) còn gặp nhiều khó khăn (do thị trường vốn suy giảm, việc tìm kiếm nhà đầu tư ngoại khó hơn trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái nhẹ, khâu phê duyệt cho phép giữ lại cổ tức Nhà nước và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư tài chính còn lâu…

Ngân hàng Việt Nam đối mặt với những thách thức nào trong năm 2023?

Thứ tư, dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN. Triển vọng năm 2023, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng.

Dự báo, năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống TCTD Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Thứ năm, khi mà sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng đã cơ bản được loại bỏ, tuy nhiên hiện tượng cổ đông, nhóm cổ đông lớn có tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng. Các TCTD luôn đảm bảo tuân thủ các tỷ lệ an toàn (bao gồm hạn chế, giới hạn cấp tín dụng; giới hạn góp vốn mua cổ phần…) tại Thông tư 22/2019 của NHNN, nhưng tình trạng công ty liên kết, có liên quan hoạt động tinh vi, có tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng.

Mặc dù khó có thể đưa ra bằng chứng xác thực về hành vi này nhưng những vụ việc vi phạm của một số tập đoàn bất động sản vừa qua đã bộc lộ tính chất liên quan này.

Thứ sáu, thanh khoản của hệ thống ngân hàng không còn dồi dào như hai năm qua. Sau giai đoạn giảm liên tiếp từ mức 34,5% năm 2016 xuống 24% năm 2021, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của hệ thống tăng dần lên mức 25,2% vào tháng 6/2022; tỷ lệ dư nợ cho vay/huy động vốn tăng từ 72,1% năm 2021 lên 74,1% vào tháng 6/2022.

Tín dụng tăng cao trong năm 2022 so với năm 2020-2021 trong xu hướng phục hồi của nền kinh tế. Tính đến ngày 30/11/2022, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế tăng 12,2%, cao hơn mức 11,5% cùng kỳ năm 2021.

Lý do NHNN điều tiết thận trọng tăng trưởng tín dụng năm 2022 vì hạn mức tăng trưởng tín dụng là giải pháp kiểm soát cung tiền, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát và lo ngại rủi ro thanh khoản hệ thống, ảnh hưởng mục tiêu ổn định lãi suất và an toàn hệ thống. Tuy nhiên, NHNN cũng đang có kế hoạch, lộ trình bỏ đi công cụ hạn mức này ở thời điểm phù hợp; nhóm nghiên cứu cho rằng nên là 1-2 năm tới.

Trong khi đó, huy động vốn năm 2022 của TCTD tăng chậm lại so với năm 2020- 2021, do dòng tiền đổ vào sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và trang trải chi phí đầu vào tăng. Tính đến hết tháng 11/2022, huy động vốn của các TCTD ước tăng 5,5%, thấp hơn cùng kỳ năm trước (6%); theo đó, M2 chỉ tăng khoảng gần 7%, thấp so với mức 9% cùng kỳ năm 2021.

Nguyên nhân chính của việc huy động vốn của các TCTD tăng thấp bao gồm lạm phát, giá cả và chi phí tăng, doanh nghiệp cần nhiều vốn hơn để trang trải chi phí tăng thêm; lãi suất và tỷ giá tăng cũng làm tăng chi phí tài chính của doanh nghiệp.

Ngoài ra, vốn tín dụng ngân hàng kiểm soát mức tăng 15,5% trong khi phát hành TPDN khó khăn hơn, buộc doanh nghiệp dùng vốn tự có nhiều hơn. Giải ngân đầu tư công chậm, khiến vòng quay tiền chậm, nợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp tăng.

Thị trường bất động sản, chứng khoán trầm lắng và đang trong giai đoạn lành mạnh hóa, cũng kéo theo một phần vốn trên hai thị trường này bị tồn đọng. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài chỉ tăng nhẹ trong điều kiện lãi suất USD tăng và thị trường chứng khoán suy giảm, môi trường đầu tư rủi ro tăng.

Thứ bảy, tỷ trọng thu dịch vụ ròng/tổng thu nhập ròng chưa có dấu hiệu cải thiện trong năm 2022 và ở mức thấp so với các nước trên thế giới.

Thứ tám, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn - nguồn vốn chi phí thấp đang có xu hướng giảm trong năm 2022. Nguyên nhân là do lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn tăng nhanh và trở nên hấp dẫn hơn, chênh lệch giữa không kỳ hạn, kỳ hạn ngắn và kỳ hạn dài mở rộng, dòng tiền nhàn rỗi đã chuyển dịch từ gửi không kỳ hạn sang gửi tiết kiệm có kỳ hạn để hưởng lãi suất cao hơn.

Chuyên gia kiến nghị nhiều giải pháp

TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia đã kiến nghị nhiều chính sách. Trong đó, tiếp tục kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, cân bằng giữa kiểm soát và thúc đẩy tăng trưởng, giữa lãi suất và tỷ giá...

TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia đã kiến nghị nhiều chính sách
TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia đã kiến nghị nhiều chính sách tại Hội thảo.

Tiếp tục đẩy nhanh các cấu phần trong Chương trình phục kinh tế - xã hội 2022 - 2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công. Triển khai kịp thời hiệu quả gói hỗ trợ lãi suất 2% quy mô 40.000 tỷ đồng nhằm hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, tăng tính lan tỏa, giảm áp lực vốn tín dụng, giảm nợ đọng; phấn đấu hết năm, đạt khoảng 85 - 90% kế hoạch giải ngân đầu tư công.

Chính phủ có đề án, kế hoạch cụ thể về giải quyết bài toán vốn cho doanh nghiệp, hộ gia đình vừa đảm bảo phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, vừa đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống tài chính, bất động sản. Trong đó, cần sớm giải quyết rủi ro trái phiếu doanh nghiệp, nhất là nhóm doanh nghiệp bất động sản.

Hoàn thiện thể chế, tăng cường kiểm tra, giám sát, nâng cao tính minh bạch, chuyên nghiệp và hiệu quả cho thị trường tài chính, quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính.

Tăng cường củng cố niềm tin của nhà đầu tư, tăng cường giáo dục tài chính theo hướng nhanh chóng giải quyết, xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm quy định trên thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Đẩy nhanh quá trình sửa đổi các luật liên quan đến lĩnh vực bất động sản như luật Đất đai, luật Nhà ở, luật kinh doanh bất động sản, lĩnh vực tài chính như luật Chứng khoán, luật Các tổ chức tín dụng, luật Doanh nghiệp và đấu giá, đấu thầu. Đồng thời, đẩy nhanh nghiên cứu và ban hành khung pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới như Fintech, gọi vốn cộng đồng, mua chung bất động sản, quỹ tín thác đầu tư bất động sản… giúp đa dạng hóa kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp cũng như hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư…

Giám sát và chỉ đạo thực hiện các nhóm giải pháp đồng bộ để phát triển lành mạnh thị trường bảo hiểm Việt Nam đã được đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm đến năm 2030, tập trung các nhiệm vụ chính về hoàn thiện hệ thống pháp luật Kinh doanh bảo hiểm...

Hồng Giang

Theo: Kinh Tế Chứng Khoán