Ngân hàng nào trích lập dự phòng rủi ro nhiều nhất quý I/2022?

(Banker.vn) Quý I/2022 ghi nhận có 24 ngân hàng tăng trưởng trích lập dự phòng so với cùng kỳ, có ba nhà băng ghi nhận mức trích lập dự phòng giảm là ACB, Viet Capital Bank và PG Bank.

Báo cáo tài chính quý I/2022 của 27 ngân hàng cho thấy tổng mức dự phòng rủi ro cho vay khách hàng đạt hơn 165.800 tỷ đồng, tăng 15,8% so với cuối năm trước.

Trong bảng thống kê này, BIDV là ngân hàng có mức trích lập dự phòng rủi ro lớn nhất quý I/2022 với 35.592 tỷ đồng, tương đương tăng 22,3% so với cuối 2021.

Xếp thứ hai về mức trích lập dự phòng là Vietcombank với 31.192 tỷ đồng, tăng 20% so với đầu năm. Lãnh đạo ngân hàng cho biết Vietcombank đã trích lập đủ 100% dự phòng cụ thể của dư nợ cơ cấu theo Thông tư 03, sớm trước hai năm so với thời hạn quy định của Ngân hàng Nhà nước. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu nội bảng đạt mức cao nhất hệ thống ngân hàng.

Ngân hàng VietinBank cũng tăng cường trích lập dự phòng trong quý vừa qua với số dư dự phòng rủi ro tăng 17,2% lên 25.795 tỷ đồng, giúp VietinBank giữ vững vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng.

Ở nhóm ngân hàng tư nhân, VPBank đứng đầu về mức trích lập dự phòng rủi ro với 11.511 tỷ đồng, tăng 16,4%. Tiếp đến là Ngân hàng MB với 10.328 tỷ đồng trích lập dự phòng rủi ro trong quý I, tăng 17,9% so với cuối năm ngoái.

Chia sẻ tại đại hội cổ đông thường niên 2022, Tổng Giám đốc Lưu Trung Thái cho biết hiện tỷ lệ dư nợ tái cơ cấu của MB khoảng 1,68% tổng dư nợ. Tỷ lệ dự phòng cuối năm dự kiến nhỏ hơn 20% tổng dư nợ.

Danh sách 10 ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro cao nhất còn có Sacombank, ACB, SHB, Techcombank và LienVietPostBank. Tổng mức trích lập của các ngân hàng này đạt hơn 144.400 tỷ đồng, chiếm 87% tổng trích lập của các nhà băng được thống kê.

Xét về con số tương đối, trong số 24 nhà băng ghi nhận tăng trưởng trích lập dự phòng so với cùng kỳ, Ngân hàng Phương Đông (OCB) là ngân hàng có mức tăng cao nhất với mức trích lập tăng 25,3% so với cuối năm ngoái. Một số ngân hàng khác cũng có trích lập dự phòng tăng mạnh so với cuối 2021 như BIDV (22,3%), TPBank (22,1%), Vietcombank (20,1%),...

Chiều ngược lại, có ba ngân hàng ghi nhận mức trích lập dự phòng giảm là ACB (giảm 0,1%), Viet Capital Bank (giảm 0,6%) và PG Bank (giảm 0,8%).

Dự phòng rủi ro cho vay các ngân hàng năm 2021.

"Bức tranh" nợ xấu ngân hàng trong quý I

Quý I/2022, tổng số dư nợ xấu của 27 ngân hàng đã tăng đến 11% so với cuối năm trước với hơn 109.600 tỷ đồng.

VPBank tiếp tục là ngân hàng có nhiều nợ xấu nhất trong ba tháng đầu năm 2022, tăng 11% so với cuối năm ngoái, trong đó nợ nghi ngờ tăng mạnh 30%. Qua đó kéo tỷ lệ nợ xấu từ mức 4,57% đầu năm lên 4,83%

Trong khối nợ này, nợ xấu của công ty con là FE Credit chiếm khoảng 63%. Tính riêng ngân hàng mẹ, số dư nợ xấu tăng 20% lên gần 6.746 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu cũng tăng từ 2,01% lên 2,27%.

Đứng thứ hai trong bảng xếp là VietinBank với quy mô nợ xấu ở mức 15.322 tỷ đồng, tăng 7% so với cuối năm ngoái. Một "ông lớn" khác là BIDV cũng xếp ngay sau đó ở vị trí thứ 3 với con số nợ xấu tăng nhẹ 1% so với cuối 2021, lên 13.730 tỷ đồng.

Tại nhóm ngân hàng tư nhân, bảng xếp hạng quý I năm nay xuất hiện thêm gương mặt mới là LienVietPostBank với số dư nợ xấu tăng 3,1% từ 2.863 tỷ đồng lên 2.953 tỷ đồng, kéo theo tỷ lệ nợ xấu tăng lên 1,42%.

Ngoài ra, top 10 ngân hàng có số dư nợ xấu lớn nhất tính đến 31/3/2023 còn bao gồm Vietcombank, Sacombank, VIB, MB, SHB và ACB. Tính riêng nợ xấu của 10 ngân hàng trên đã chiếm 82.608 tỷ đồng, tương đương 75% tổng nợ xấu của 27 ngân hàng được khảo sát.

Báo cáo cập nhật ngành ngân hàng mới đây của Công ty Chứng khoán Mirae Asset cho rằng dư nợ tái cơ cấu khoản vay tái cơ cấu đã đạt đến đỉnh điểm. Nợ xấu mới hình thành có thể sẽ không tăng nhiều, nhưng nợ xấu trên sổ sách có thể sẽ tăng do việc ghi nhận nợ xấu từ khoản cho vay tái cơ cấu khi thông tư 14 hết hiệu lực.

Các ngân hàng với tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp có thể sẽ phải tăng dự phòng trong thời gian tới, trong khi các ngân hàng chất lượng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao sẽ không gặp áp lực dự phòng.

Thu Thuỷ

Theo Tạp chí Kinh tế Chứng khoán Việt Nam

Theo: Kinh Tế Chứng Khoán
    Bài cùng chuyên mục