Tóm tắt: Tài chính toàn diện là việc cung cấp các dịch vụ tài chính chính thức (thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm)... một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu và với chi phí hợp lý tới tất cả người dân, doanh nghiệp. Tài chính toàn diện trong thời đại công nghệ số không chỉ giới hạn ở việc cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà bao gồm cả nâng cao hiểu biết về tài chính số, nhằm giúp người dân được trang bị tốt hơn với dịch vụ tài chính. Nâng cao hiểu biết về tài chính số được đặt ra trong chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu về tài chính toàn diện ở Việt Nam trong thời đại công nghệ số. Bài viết khái quát các khái niệm, tác động của việc nâng cao hiểu biết tài chính số tới tài chính toàn diện. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiểu biết tài chính số, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện trong thời đại công nghệ số.
Improving digital financial literacy to promote financial inclusion in the digital age
Abstract: Financial inclusion is the provision of official financial services (payments, money transfers, savings, credit, insurance)... in a convenient manner, in line with needs and costs and with reasonable fees for all citizens and businesses. Financial inclusion in digital age is not limited to improving access to credit, but also includes improving digital financial literacy, in order to help people be better equipped with financial services. Raising digital finance literacy is set out in the strategy to achieve the goals of financial inclusion in Vietnam in the digital age. The article outlines concepts and impacts of improving digital financial literacy on financial inclusion. On that basis, the article makes some recommendations to improve digital financial literacy, contributing to promoting financial inclusion in the digital age.
1. Khái niệm hiểu biết tài chính số
Hệ thống tài chính đã được mở rộng, cung cấp nhiều dịch vụ tiết kiệm, tín dụng, đầu tư, bảo hiểm và hưu trí. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm để cung cấp các dịch vụ chất lượng với chi phí thấp cho người dân và các doanh nghiệp nhỏ ở cả thành thị và các khu vực nông thôn cũng như các khu vực nghèo hơn. Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông áp dụng cho các dịch vụ tài chính cung cấp các cơ hội mới để thúc đẩy tài chính toàn diện nhưng cũng đòi hỏi nhận thức và hiểu biết về tài chính nhiều hơn.
Tương tự như hiểu biết về kỹ thuật số và hiểu biết về tài chính, hiểu biết về tài chính số là một khái niệm đa chiều. Trong khi một số tài liệu trước đây (ví dụ: OECD 2017) đã mô tả các khía cạnh khác nhau của hiểu biết tài chính số, vẫn chưa có định nghĩa chuẩn hóa về hiểu biết tài chính số. Bốn khía cạnh của hiểu biết tài chính số, bao gồm kiến thức về các sản phẩm và dịch vụ tài chính số, kiến thức về rủi ro tài chính số, kiến thức về kiểm soát rủi ro tài chính số và kiến thức về quyền lợi của người tiêu dùng và các thủ tục bồi thường.
Khía cạnh đầu tiên là kiến thức về các sản phẩm và dịch vụ tài chính số, bao hàm những hiểu biết cơ bản về các sản phẩm và dịch vụ tài chính số. Các cá nhân nên nhận thức được sự tồn tại của các sản phẩm và dịch vụ tài chính được cung cấp thông qua các phương tiện kỹ thuật số như internet và điện thoại di động. Các dịch vụ này thường rơi vào bốn danh mục:
- Thanh toán: tiền điện tử, ví điện thoại di động, dịch vụ chuyển tiền;
- Quản lý tài sản: ngân hàng trực tuyến, nhà môi giới trực tuyến, quản lý tài chính cá nhân, giao dịch di động;
- Tài chính thay thế: huy động vốn từ cộng đồng, cho vay ngang hàng (P2P), ...
- Khác: Dịch vụ bảo hiểm dựa trên Internet, ...
Ngoài việc nhận thức được các sản phẩm và dịch vụ tài chính số, người tiêu dùng có thể so sánh các ưu điểm và nhược điểm của mỗi sản phẩm và dịch vụ tài chính số có sẵn. Những kiến thức như vậy sẽ giúp họ hiểu các chức năng cơ bản của các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính số khác nhau cho các mục đích cá nhân hoặc cho mục đích kinh doanh.
Khía cạnh thứ hai của hiểu biết tài chính số là nhận thức về rủi ro tài chính số. Các cá nhân và doanh nghiệp cần hiểu các rủi ro bổ sung mà họ có thể gặp phải khi sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số, đa dạng hơn nhưng đôi khi khó phát hiện hơn những sản phẩm liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tài chính truyền thống. Người dùng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số nên có sự hiểu biết về sự tồn tại của gian lận trực tuyến và rủi ro bảo mật không gian mạng. Người dùng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số phải đối mặt với các rủi ro tiềm ẩn, chẳng hạn như:
- Lừa đảo: Khi một tin tặc giả danh một tổ chức để khiến người dùng tiết lộ dữ liệu cá nhân, như tên người dùng hoặc mật khẩu, qua email hoặc mạng xã hội;
- Pharming (chuyển hướng người dùng Internet từ các trang web hợp pháp đến các trang web độc hại): Khi vi-rút chuyển hướng người dùng đến một trang sai, khiến người đó tiết lộ thông tin cá nhân;
- Phần mềm gián điệp: Khi phần mềm độc hại tự chèn vào PC của người dùng hoặc điện thoại di động và truyền dữ liệu cá nhân;
- Hoán đổi thẻ SIM: Khi ai đó đóng giả là người dùng và lấy được của người dùng thẻ SIM, nhờ đó có được dữ liệu cá nhân.
Người dùng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số cũng nên biết rằng dấu ấn số của họ, bao gồm thông tin mà họ cung cấp cho các nhà cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính số, cũng có thể là một nguồn rủi ro, ngay cả khi nó không trực tiếp dẫn đến thiệt hại, bao gồm:
- Hồ sơ: Người dùng có thể bị loại trừ quyền truy cập vào các dịch vụ nhất định dựa trên dữ liệu và hoạt động trực tuyến của họ.
- Hacking: Kẻ trộm có thể đánh cắp dữ liệu cá nhân từ các hoạt động trực tuyến của họ như truy cập các trang mạng xã hội.
Do khả năng tiếp cận tín dụng dễ dàng của Fintech, người tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số cũng có thể phải đối mặt với các vấn đề tiềm ẩn về việc đi vay quá nhiều hoặc lãi suất cao quá mức. Rủi ro này có thể gây ra tổn thất lớn và bất ngờ khi các nhà cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính số không được điều tiết hoặc chỉ được điều tiết yếu kém. Vay quá nhiều cũng có thể gây hại cho xếp hạng tín dụng của họ. Cuối cùng, quyền truy cập không bình đẳng vào các sản phẩm và dịch vụ tài chính số có thể làm trầm trọng thêm khoảng cách giữa những người giàu và người nghèo.
Người sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số nên hiểu đầy đủ các điều khoản và điều kiện quy định trong hợp đồng họ ký điện tử với các nhà cung cấp. Họ cũng nên nhận thức được (rủi ro) tác động của hợp đồng kỹ thuật số. Họ nên hiểu rằng các nhà cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính số có thể sử dụng thông tin cá nhân của họ cho các mục đích khác như tính toán nhu cầu tín dụng, quảng cáo và đánh giá tín dụng. Về rủi ro tài chính, khả năng tiếp cận tài chính dễ dàng có thể dẫn đến vay nợ quá mức.
Khía cạnh thứ ba của hiểu biết tài chính số là kiểm soát rủi ro tài chính số, liên quan đến sự hiểu biết của người dùng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số về cách bảo vệ họ khỏi rủi ro phát sinh từ việc sử dụng đó. Họ nên biết cách sử dụng các chương trình máy tính và các ứng dụng dành cho thiết bị di động để tránh rủi ro từ thư rác, lừa đảo,... Họ cũng nên biết cách để bảo vệ số nhận dạng cá nhân (PIN) và các thông tin cá nhân khác khi sử dụng các dịch vụ tài chính được cung cấp thông qua các phương tiện kỹ thuật số.
Khía cạnh thứ tư là kiến thức về quyền của người tiêu dùng và các thủ tục bồi thường, trong trường hợp người dùng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số trở thành nạn nhân của những rủi ro nêu trên.
Người dùng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số nên hiểu các quyền của họ và biết họ có thể đi đâu và làm thế nào để được bồi thường nếu trở thành nạn nhân của những gian lận hoặc thiệt hại khác. Họ cũng nên hiểu quyền của mình đối với dữ liệu cá nhân và cách có thể lấy được khoản bồi thường do trở thành nạn nhân của việc sử dụng trái phép.
2. Thực trạng hiểu biết tài chính số ở một số quốc gia
Các sản phẩm và dịch vụ tài chính số đang được sử dụng như một công cụ để thúc đẩy tài chính toàn diện trên toàn thế giới. Kết quả là, các sản phẩm và dịch vụ tài chính số phải được phát triển và quy định với các biện pháp thích hợp để chống lại rủi ro và để đảm bảo bảo vệ khách hàng.
Có những cách tiếp cận khác nhau đối với hiểu biết tài chính số, ở giác độ vĩ mô thông qua các quy định tài chính để phù hợp với tài chính số, như ở Campuchia và Philippines, chỉ ra cách các quy định có thể cản trở hoặc thúc đẩy tăng trưởng tài chính số. Ở Campuchia, một nhà cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính số đơn lẻ, Wing, bao phủ 80% thị trường, trong khi ngân hàng và các tổ chức tài chính khác cũng cung cấp các dịch vụ ngân hàng di động, ngân hàng trực tuyến và ngân hàng đại lý (Sarat 2016). Rất khó gia nhập thị trường tài chính số vì nhu cầu tìm một ngân hàng đối tác cũng phải tuân theo một bộ quy trình tuân thủ do các cơ quan chức năng đặt ra. Ngược lại, ở Philippines, có hơn 100 ngân hàng cung cấp các tiện ích ngân hàng điện tử và 30 tổ chức phát hành tiền điện tử. Các quy định đã ban hành trong năm 2009 liệt kê các hoạt động cụ thể bị cấm và đã cho phép các ngân hàng thuê ngoài một loạt các hoạt động mà không cần phải tìm kiếm sự chấp thuận trước từ cơ quan quản lý. Điều này đã kích hoạt thậm chí các ngân hàng nông thôn để phát triển mối liên kết với các đối tác khác nhau. Điện toán đám mây cũng được phép và làm cho các ngân hàng qui mô vừa tiếp cận được cơ sở hạ tầng và tài nguyên.
Tuy nhiên, ngay cả với những quy định cho phép tăng trưởng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số, môi trường giống nhau có thể hạn chế sự phát triển của các sản phẩm và dịch vụ tài chính số. Theo The Better Than Cash Alliance, chỉ 1% trong số 2,5 tỷ giao dịch mỗi tháng ở Philippines được thực hiện bằng điện tử; đây là kết quả của khả năng tương tác hạn chế của hệ thống thanh toán nội địa. Các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán chính có hệ sinh thái riêng của họ. Do đó, các tổ chức nhỏ hơn không thể tham gia và dòng chảy của các quỹ bị hạn chế đối với tiền mặt và séc; 36% thành phố vẫn chưa có sự diện diện của các tổ chức tài chính (Estioko 2016).
Kinh nghiệm của Nhật Bản về tài chính toàn diện cho thấy các cơ hội và hạn chế trong việc kết hợp các dịch vụ tài chính mới với giáo dục tài chính. Chính phủ Nhật Bản ban đầu tuyển dụng góa phụ trong Thế chiến II bán bảo hiểm nhân thọ và thực hiện giáo dục tài chính cho khách hàng của họ - những công nhân trong các doanh nghiệp nhỏ và người lao động khu vực nông thôn. Giáo dục tài chính còn được cung cấp bởi Bưu điện Nhật Bản, một trong những nhà cung cấp bảo hiểm nhân thọ chính của Nhật Bản. Khi các công ty bảo hiểm tư nhân nhìn thấy lợi nhuận là kết quả từ việc tiếp cận khách hàng mới, họ cũng được tạo động lực nhiều hơn. Mặc dù việc mở rộng thành công các dịch vụ tài chính ở Nhật Bản, hiểu biết về tài chính vẫn còn hạn chế bởi vì bản thân giáo viên thiếu các kỹ năng giáo dục tài chính; chỉ 13% sinh viên tốt nghiệp ngành kinh tế và kinh doanh chọn giảng dạy (Yoshino và Morgan 2016). Và kết quả của giáo dục tài chính không đầy đủ trong trường học là các doanh nghiệp nhỏ ở Nhật Bản phải dạy các kỹ năng tài chính kế toán cơ bản cho nhân viên của họ trở thành một việc khá phổ biến.
Tại Malaysia, Cơ quan Tư vấn Tín dụng và Quản lý nợ (APKP) đã phát hiện ra rằng lý do chính cho các khoản nợ không trả được, ở mức 52%, là lập kế hoạch tài chính kém (Azaddin 2016). Hơn nữa, cơ quan này xác định các vấn đề ưu tiên theo nhóm tuổi: lớp trẻ thiếu kiến thức; người trung niên thiếu dòng tiền, khả năng quản lý tín dụng và lập kế hoạch dài hạn; và những người lớn tuổi cần hiểu biết nhiều hơn về các vấn đề hưu trí và kế hoạch nghỉ hưu. Để cải thiện, cơ quan này đã phát triển mô-đun riêng biệt đáp ứng nhu cầu của các giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của một con người để trang bị cho họ kiến thức cần thiết để đưa ra các quyết định tài chính phù hợp. Người nghèo phải đối mặt với các rủi ro lớn hơn của những tác động tiêu cực đến cuộc sống của họ nếu sai lầm tài chính được thực hiện. Do nguồn lực hạn chế, cơ quan này đã lựa chọn ưu tiên các nhóm dễ bị tổn thương với mục đích giảm tần số và mức độ sai lầm về tài chính của họ.
3. Nâng cao hiểu biết tài chính số góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện trong thời đại công nghệ số
Hiểu biết về tài chính số trở thành một khía cạnh ngày càng quan trọng của giáo dục cho kỷ nguyên số. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi các cá nhân sẽ trở nên có trách nhiệm hơn trong việc lập kế hoạch tài chính của chính họ, bao gồm cả cho hưu trí. Người tiêu dùng sẽ cần phải có sự am hiểu về tài chính ngày càng tăng để sử dụng hiệu quả các sản phẩm công nghệ tài chính (Fintech) và tránh những sai lầm. Các nước công nghiệp phát triển trong nhóm G20 cần thống nhất về một định nghĩa tiêu chuẩn hóa về hiểu biết tài chính số, thiết kế các công cụ đánh giá, phát triển các chiến lược và chương trình để thúc đẩy giáo dục tài chính số, bao gồm các chương trình đặc biệt cho những nhóm người dễ bị tổn thương, bao gồm người già, phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp, chủ sở hữu doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ (SME) và các doanh nghiệp khởi nghiệp, cụ thể như sau:
Một là, giáo dục tài chính nên được bao gồm trong chương trình giảng dạy tiêu chuẩn của trường học tại mọi cấp độ.
Giáo dục tài chính hiệu quả nhất đã được chứng minh là có mục tiêu phù hợp với nhu cầu của từng lứa tuổi. Giáo viên, tuy nhiên, cần được đào tạo phù hợp để mang lại kết quả thành công. Hiểu biết tài chính cao hơn làm tăng sự tự tin của người lao động, đạo đức làm việc và năng suất của họ.
Hai là, phát triển và triển khai các công cụ để đo lường hiểu biết tài chính số.
OECD khuyến nghị rằng các cuộc điều tra quốc gia chuyên dụng hoặc phối hợp các nghiên cứu quốc tế nên được sử dụng để thu thập dữ liệu có chất lượng cao, có thể so sánh được về các cấp độ hiểu biết về tài chính (OECD 2019). Các cuộc khảo sát được tiêu chuẩn hóa quốc tế hiểu biết chung về tài chính đã được phát triển bởi OECD (OECD 2018), Ngân hàng Thế giới (World Bank 2018) và các tổ chức khác. Tuy nhiên, các cuộc khảo sát này không bao gồm các khía cạnh của hiểu biết tài chính số được mô tả trong phần trên. Một bộ câu hỏi chuẩn hóa để bao quát được các khía cạnh này nên được đưa vào các bảng hỏi. Các cuộc khảo sát tăng cường nên được thực hiện càng sớm càng tốt để có được hiểu biết cơ bản về tài chính số ở từng quốc gia.
Dữ liệu thu được cần được phân tích để xác định các khía cạnh của hiểu biết tài chính số, đặc biệt là đối với các nhóm người dễ bị tổn thương. Hơn nữa, dữ liệu nên được sử dụng để phân tích hành vi tài chính của dân cư hoặc các nhóm cụ thể trong các lĩnh vực liên quan, chẳng hạn như truy cập và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính số cho mục đích tiết kiệm, vay, đầu tư và mua bảo hiểm.
Ba là, phát triển các chiến lược và chương trình giáo dục tài chính số
Chính phủ các nước cần quan tâm thiết lập và thực hiện các chiến lược quốc gia để đảm bảo một cách tiếp cận phối hợp trong giáo dục tài chính (OECD 2019), bao gồm các khía cạnh sau:
Công nhận tầm quan trọng của giáo dục tài chính - thông qua thông lệ phù hợp - ở cấp quốc gia;
Yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ tài chính bao gồm các công ty Fintech phải tiết lộ thông tin sản phẩm và các rủi ro liên quan cho công chúng một cách chính thức;
Thiết lập một lộ trình để hỗ trợ việc đạt được các mục tiêu xác định trước;
Cung cấp hướng dẫn về các chương trình riêng lẻ được thực hiện theo chiến lược quốc gia nhằm đóng góp một cách hiệu quả và thích hợp vào chiến lược tổng thể;
Kết hợp các quá trình giám sát và đánh giá để đánh giá tiến trình của chiến lược và sửa đổi nó cho phù hợp.
Tất cả các khía cạnh này cần được áp dụng cho việc phát triển và thực hiện của các chiến lược và chương trình quốc gia cho giáo dục tài chính số.
Tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của hiểu biết về tài chính số, đặc biệt là kiến thức về cách sử dụng các phần mềm, ứng dụng và nền tảng kỹ thuật số thông qua các thiết bị kỹ thuật số như điện thoại thông minh, máy tính đã được công nhận sẽ góp phần vào việc thúc đẩy tài chính toàn diện trong thời đại công nghệ số.
Tài liệu tham khảo:
- ADB, 2016, Tài chính toàn diện trong nền kinh tế kỹ thuật số;
Chetty, K., Q. Liu, W. Li, J. Josie, N. Gcora and S. Ben. 2017. Bridging the Digital Divide: Measuring Digital Literacy. G20 Insights;
- Mandell, L., and L. Klein. 2009. The Impact of Financial Literacy Education on Subsequent Financial Behavior. Journal of Financial Counseling and Planning 20(1): 16–24;
- OECD, 2005, Improving Financial Literacy: Analysis of issues and policies;
OECD, 2018. OECD/INFE Toolkit for Measuring Financial Literacy and Financial Inclusion. Paris: OECD;
- OECD, 2019. Draft OECD Recommendation on Financial Literacy and Education. Paris: OECD;
- World Bank. 2018. Financial Literacy Survey Questionnaire. Washington, DC: World Bank.
Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 17 năm 2021
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|