Điểm sáng từ kiểm soát lạm phát năm 2023
Điểm lại về khó khăn, thách thức, PGS.TS. Nguyễn Mạnh Thiều, Phó Giám đốc Học viện Tài chính cho biết, năm 2023, trên thế giới, lạm phát tuy đã hạ nhiệt nhưng vẫn neo ở mức cao, nhiều nền kinh tế lớn duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cao; thương mại, tiêu dùng và đầu tư toàn cầu tiếp tục suy giảm; hàng rào bảo hộ, phòng vệ thương mại xu hướng gia tăng... ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của khu vực và thế giới. Nhiều quốc gia, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam, tăng trưởng chậm lại, nợ công tăng cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro, tổng cầu thế giới suy giảm… đã tác động trực tiếp tới các quốc gia có độ mở kinh tế lớn, trong đó có Việt Nam.
Ông Phạm Văn Bình, Phó Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) khẳng định diễn biến thị trường giá cả luôn là vấn đề nóng và chỉ tiêu về kiểm soát lạm phát luôn là chỉ tiêu quan trọng trong điều hành chính sách vĩ mô. Không phải ngẫu nhiên mà trong giai đoạn vừa qua, khi lạm phát các nước, nhất là Mỹ hay Châu Âu tăng cao, chính sách các quốc gia đều ưu tiên kiểm soát lạm phát.
Do đó, vai trò của công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường, cơ sở dữ liệu về giá là vô cùng quan trọng và được dành riêng một chương tại Luật Giá 2023 ngày 19/6/2023.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý giá cho biết, giai đoạn vừa qua, Bộ Tài chính đã chủ động tham mưu để Chính phủ có giải pháp kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong công tác kiểm soát lạm phát thành công năm vừa qua.
PGS.TS. Nguyễn Bá Minh, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính, giảng viên cao cấp Học viện Tài chính chia sẻ, năm 2023 khi ông dự báo lạm phát khoảng 3,5-4%, có chuyên gia đã không tin và cho rằng con số này không khả thi khi thời điểm đó chỉ số lạm phát tại nhiều nền kinh tế lớn tăng phi mã, điển hình là một số nước khu vực đồng Euro. Kết quả đã cho thấy, chỉ số lạm phát năm nay đạt thấp hơn nhiều mục tiêu Quốc hội đề ra.
Phân tích kỹ hơn diễn biến lạm phát năm vừa qua, ông Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính đã chỉ ra hai giai đoạn của diễn biến lạm phát tại Việt Nam trong năm 2023.
Giai đoạn 1 là nửa đầu năm 2023, lạm phát so với cùng kỳ có xu hướng giảm từ mức 4,9% vào tháng 1/2023 xuống còn 2% vào tháng 6/2023.
Ông Nguyễn Đức Độ chỉ ra một số nguyên nhân chính khiến lạm phát giai đoạn này giảm mạnh so với cùng kỳ như: tổng cầu trong nửa đầu năm 2023 rất yếu, thể hiện qua việc GDP tăng trưởng rất thấp, quý I/2023 tăng 3,41%, quý II/2023 tăng 4,25%. Bên cạnh đó, giá hàng hóa cơ bản trên thế giới, đặc biệt là giá dầu cũng có xu hướng giảm mạnh, thậm chí tăng trưởng âm sau khi đạt đỉnh giữa năm 2022. Ngoài ra, còn do ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng cung tiền thấp trong năm 2022 (3,85%) và nửa đầu năm 2023 (2,53%).
Giai đoạn 2 là nửa cuối năm 2023, lạm phát bắt đầu nhích tăng do nền kinh tế phục hồi vào quý III, IV/2023.
"Bên cạnh việc các nền tảng kinh tế vĩ mô dần cải thiện khi tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, lãi suất huy động và cho vay giảm mạnh, cung tiền và tín dụng tăng nhanh hơn, lạm phát có xu hướng gia tăng chủ yếu do một loạt các cú sốc từ phía cung", ông Nguyễn Đức Độ nói thêm.
Phân tích nguyên nhân, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính cho biết, đầu tiên do giá dầu tăng trở lại dù tốc độ tăng không quá lớn. Đáng chú ý, nhiều mặt hàng do Nhà nước quản lý điều chỉnh giá, nếu không điều chỉnh nhiều khả năng lạm phát còn dưới 3%. Theo đó, Nhà nước điều chỉnh tăng học phí, khiến chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 8,06% trong tháng 9/2023 và giá dịch vụ y tế khiến chỉ số giá nhóm này tăng 2,9% trong tháng 11/2023 và 2,15% trong tháng 12/2023.
Điểm đáng chú ý là CPI đã tăng đột biến trong các tháng 8-9/2023, với mức tăng 0,88% trong tháng 8/2023 và 1,08% trong tháng 9/2023. Kết quả, lạm phát so với cùng kỳ tăng từ mức 2% vào tháng 6/2023 lên mức 3,58% vào tháng 12/2023.
Tuy nhiên, do lạm phát giảm trong nửa đầu năm nên lạm phát trung bình năm 2023 cũng chỉ ở mức 3,25%, thấp hơn so với mục tiêu đặt ra khoảng 4,5%.
Khẳng định kiểm soát lạm phát là điểm sáng trong bức tranh kinh tế năm 2023, PGS.TS. Ngô Trí Long chỉ rõ, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2023 tăng 3,25% so với bình quân năm 2022, đây là mức tăng cao hơn của bình quân các năm 2015, 2016, 2019 đến 2022 nhưng thấp hơn khá nhiều so với mức tăng CPI bình quân của các năm còn lại trong giai đoạn 2008 - 2023; lạm phát cơ bản bình quân năm 2023 tăng 4,16% so với bình quân năm 2022. Thành công càng có ý nghĩa khi đây là năm thứ 10 liên tiếp lạm phát được kiểm soát theo mục tiêu của Quốc hội.
Điều hành lạm phát năm 2024 dự báo "dễ thở"
Từ những kết quả đạt được trong năm 2023, các chuyên gia dự báo rằng áp lực lạm phát sẽ không lớn trong năm 2024.
Cho rằng việc kiểm soát lạm phát tương đối thuận lợi năm 2024, ông Nguyễn Đức Độ đưa ra ba kịch bản lạm phát gồm: Kịch bản cao CPI tăng khoảng 3,5%; kịch bản thấp CPI tăng khoảng 2,5% và dự báo CPI năm 2024 trong khoảng 3%. Tuy nhiên, dự báo đó chưa tính đến giá các hàng hóa, dịch vụ do nhà nước quản lý.
Phân tích bối cảnh, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính cho rằng, thứ nhất, kinh tế thế giới, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại, đồng thời nguy cơ kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái chưa được loại trừ. Các số liệu trong lịch sử từ năm 1982 đến nay cho thấy khi lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 3 tháng cao hơn so với kỳ hạn 10 năm (đường cong lãi suất âm), thì nền kinh tế Mỹ sẽ rơi vào suy thoái sau 3-6 quý.
"Như vậy, với việc đường cong lãi suất tại Mỹ đạt mức âm vào quý IV/2022, khả năng kinh tế Mỹ sẽ rơi vào suy thoái trong năm 2024 là hoàn toàn có thể xảy ra", Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính đánh giá.
Thứ hai, với triển vọng kinh tế thế giới không thật sự khả quan, giá dầu sẽ khó tăng mạnh, thậm chí có thể giảm mạnh nếu kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái. Dự báo giá dầu WTI trong năm 2024 sẽ xoay quanh mức trung bình 5 năm của giai đoạn 2019- 2023 là 67 USD/thùng.
Thứ ba, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2024 được dự báo cũng sẽ tăng trưởng ở mức vừa phải dù so với nền thấp của năm 2023 (mục tiêu trên 6%, cao hơn một chút so với năm 2022). Hơn nữa, do thị trường bất động sản vẫn đang trong giai đoạn khó khăn, khu vực công nghiệp - xây dựng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng sẽ bị ảnh hưởng và tăng trưởng thấp trong năm 2024.
Thứ tư, áp lực lạm phát từ yếu tố tỷ giá tăng trong năm 2024 được dự báo sẽ không lớn khi đồng USD đang trong xu hướng giảm giá, còn Fed nhiều khả năng sẽ bắt đầu giảm lãi suất từ quý II/2024.
"Hơn nữa, cho dù đồng USD tăng giá mạnh trên thị trường thế giới, Ngân hàng Nhà nước sẽ can thiệp để ổn định tỷ giá. Nói cách khác, môi trường tiền tệ - tỷ giá đang ở mức trung tính và sẽ không khiến giá cả tăng đột biến trong năm 2024", ông Nguyễn Đức Độ nói thêm.
Đồng quan điểm, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh nhận định, năm 2024, lạm phát có chiều hướng thuận nhiều hơn. Dự báo, nếu giá dầu và nguồn cung nguyên vật liệu tăng cao, lạm phát của các nền kinh tế lớn vẫn ở mức cao, kinh tế thế giới phục hồi chậm, các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng ở mức 5,5-6,5% thì khả năng lạm phát cả năm sẽ trong khoảng 3,2-3,5%.
“Nếu giá dầu thô, nguyên, vật liệu dao động ở mức như hiện nay hoặc thấp hơn, cơ hội chống lạm phát của các quốc gia tốt hơn, kinh tế thế giới phục hồi tốt hơn dự báo từ đầu năm, các gói hỗ trợ hồi phục và tăng trưởng kinh tế phát huy tốt tác dụng, doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội và những thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới, tiếp tục đẩy mạnh xuất, nhập khẩu, khu vực du lịch, dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ, giải ngân đầu tư công đạt mức cao, thì khả năng lạm phát cả năm có thể từ 3,5-3,8%” - chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh nhận định.
PGS.TS Ngô Trí Long thì cho rằng, Chính phủ có kinh nghiệm trong điều hành giá hàng hóa và dịch vụ chiến lược, cùng với tổng cầu tiêu dùng chưa có dấu hiệu khởi sắc, mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024 từ 4 - 4,5% đã được Quốc hội thông qua hoàn toàn khả thi.
Tuy nhiên, vẫn còn một số yếu tố gây sức ép lên lạm phát, như dự báo tăng trưởng cao trở lại ở một số quốc gia kéo theo lạm phát tăng; dự báo CPI tăng do thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ do nhà nước quản lý theo hướng tính đúng, tính đủ các yếu tố, các chi phí thực hiện vào giá dịch vụ y tế và học phí giáo dục; tăng lương từ 1/7/2024…
Dự báo năm 2024, lạm phát có thể ở mức 3,5-4%, PGS.TS Phan Thế Công, Trưởng khoa Kinh tế, Trường Đại học Thương mại nêu quan điểm, bên cạnh các yếu tố gây áp lực gia tăng lạm phát và gây biến động về giá cả ở Việt Nam như giá nguyên, vật liệu đầu vào thế giới ở mức cao; giá các mặt hàng chiến lược do Nhà nước quản lý (dịch vụ y tế, giáo dục) có thể tăng sau nhiều năm kìm giữ; tác động của tăng lương và giá các mặt hàng tiêu dùng gia tăng theo yếu tố mùa vụ; việc cải cách tiền lương và tăng lương tối thiểu vùng từ tháng 7/2024… cũng có những yếu tố giúp giảm áp lực lên mặt bằng giá như sự hỗ trợ giảm thuế môi trường đối với xăng, dầu; tiếp tục giảm thuế giá trị gia tăng trong năm 2024.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) khẳng định, sẽ tiếp tục phát huy các thành công vừa qua, Bộ Tài chính sẽ chủ động phối hợp với các bộ, ngành để tham mưu Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo điều hành giá và thực hiện theo thẩm quyền đồng bộ các giải pháp, biện pháp chủ động ứng phó với những thách thức trong quản lý giá.
Theo đó, tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế và lạm phát thế giới tác động đến Việt Nam để có những giải pháp ứng phó phù hợp. Giám sát chặt chẽ biến động giá cả thị trường trong nước để tham mưu chính sách, kịch bản điều hành giá phù hợp, linh hoạt, kịp thời, nhất là với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu có tác động lớn tới mặt bằng giá, đặc biệt trong các thời điểm có biến động giá như lễ tết, điều chỉnh chính sách tiền lương.
Minh Đức
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|