Cơ hội vàng nhưng áp lực lớn
Khi Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại, nền kinh tế số và kinh tế xanh không còn là lựa chọn, mà là con đường bắt buộc. Điều đó đồng nghĩa yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành vấn đề sống còn.
Phát biểu tham luận tại Hội nghị tập huấn “Nâng cao hiệu quả truyền thông tuyển sinh tại các cơ sở đào tạo nghề ngành Công Thương khu vực phía Bắc”, TS. Phạm Vũ Quốc Bình, Phó Cục trưởng Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên (Bộ GD&ĐT) đã nhấn mạnh: “Chúng ta có thể nhập khẩu công nghệ, mua sắm thiết bị, nhưng tuyệt đối không thể nhập khẩu nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao chỉ có thể được đào tạo và rèn luyện tại chính quốc gia này, trong những cơ sở giáo dục nghề nghiệp do chúng ta xây dựng”.
Đó không chỉ là một thông điệp mạnh mẽ, mà còn là sự thật hiển nhiên: nếu giáo dục nghề nghiệp không đủ sức đáp ứng, mọi chiến lược chuyển đổi số, tăng trưởng xanh hay công nghiệp hóa đều có nguy cơ bị kéo lùi.

Toàn cảnh Hội nghị tập huấn “Nâng cao hiệu quả truyền thông tuyển sinh tại các cơ sở đào tạo nghề ngành Công Thương khu vực phía Bắc. Ảnh: Phạm Giang
Đến cuối năm 2024, hệ thống giáo dục nghề nghiệp cả nước đã có 1.545 cơ sở, trong đó hơn 40% là tư thục. Năng lực đào tạo được cấp phép khoảng 3 triệu người mỗi năm, với 800 nghề trình độ trung cấp, 500 nghề trình độ cao đẳng và hàng nghìn nghề sơ cấp. Mỗi năm có hơn 2,3 triệu học viên nhập học và khoảng 1,9 triệu người tốt nghiệp. Tỷ lệ có việc làm sau tốt nghiệp đạt trên 80%, nhiều cơ sở uy tín đạt tới 100%.
Những con số này cho thấy một hệ thống đã lớn mạnh về quy mô và ngày càng khẳng định vai trò trong cung ứng lao động cho thị trường. Tuy nhiên, nếu nhìn sâu vào chất lượng, khoảng cách so với yêu cầu phát triển vẫn còn rất xa. Đội ngũ giảng viên còn thiếu hụt lực lượng có trình độ cao, đặc biệt trong các ngành công nghệ mới. Chương trình đào tạo còn chậm đổi mới, chưa theo kịp tốc độ thay đổi công nghệ và chưa đạt chuẩn quốc tế. Cơ sở vật chất ở nhiều trường nghề vẫn lạc hậu, không đủ điều kiện để học viên thực hành với thiết bị tiên tiến.
Một rào cản khác nằm ở nhận thức xã hội. Nhiều phụ huynh và người lao động vẫn xem học nghề như một lựa chọn “thứ yếu” so với đại học. Tâm lý này khiến công tác tuyển sinh gặp khó khăn, làm giảm sức hút của giáo dục nghề nghiệp trong khi nhu cầu lao động kỹ năng lại tăng mạnh. Cùng với đó, nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, trong khi sự tham gia của doanh nghiệp và khu vực tư nhân còn hạn chế.
Chính vì vậy, dù tỷ lệ việc làm cao, nhưng phần lớn lao động sau đào tạo vẫn chỉ dừng lại ở mức đáp ứng các công việc giản đơn, chưa đủ sức đảm nhận những vị trí phức tạp đòi hỏi kiến thức công nghệ cao trong nền kinh tế tri thức.
Điều đáng mừng là hệ thống chính sách cho giáo dục nghề nghiệp đang có những chuyển động quan trọng. Chỉ thị 21-CT/TW (2023) của Ban Bí thư xác định rõ mục tiêu đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Quyết định 247/QĐ-TTg (2025) của Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa kế hoạch hành động, trong khi Nghị quyết 71-NQ/TW (2025) của Bộ Chính trị đã coi giáo dục – đào tạo là một trong ba đột phá chiến lược.
Đặc biệt, Bộ GD&ĐT đang triển khai sửa đổi Luật Giáo dục nghề nghiệp, trong đó lần đầu tiên bổ sung một chương riêng về vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp. Đây là bước thay đổi tư duy căn bản: doanh nghiệp không còn đứng ngoài quá trình đào tạo, mà trở thành chủ thể tham gia trực tiếp, cùng định hướng, đào tạo và sử dụng lao động.
Chính sách mới này đã phá vỡ mô hình đào tạo tách rời thực tiễn vốn tồn tại lâu nay, để tiến tới một mô hình mới, nơi “đào tạo gắn liền với sử dụng, trường nghề gắn với doanh nghiệp, nhà trường và thị trường cùng thở một nhịp”. Điều này sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giữa kỹ năng được đào tạo và yêu cầu thực tế của nền kinh tế.
Tư duy đột phá từ chính sách
TS. Phạm Vũ Quốc Bình nhấn mạnh rằng, muốn giáo dục nghề nghiệp thực sự trở thành động lực phát triển, trước hết cần thay đổi nhận thức xã hội về học nghề. Người học nghề không thể tiếp tục bị nhìn nhận như những “lao động tay chân” đơn thuần, mà phải được coi là những chủ thể tri thức,..những người trực tiếp kiến tạo nền sản xuất hiện đại.
Theo ông, chỉ khi học nghề trở thành niềm tự hào, khi lao động kỹ năng được tôn vinh, thì xã hội mới khơi dậy được phong trào học tập suốt đời. Trước sự biến đổi không ngừng, nâng cao kỹ năng không phải là lựa chọn, mà là con đường duy nhất để mỗi người lao động có thể bảo đảm việc làm, vươn tới thu nhập bền vững và đủ sức hội nhập quốc tế.
Một trọng tâm khác là sắp xếp lại mạng lưới trường nghề. Những cơ sở yếu kém, trùng lặp ngành nghề sẽ phải giải thể, trong khi những trung tâm đào tạo mạnh, hiện đại cần được xây dựng. Các trung tâm này sẽ trở thành “cứ điểm” cung ứng nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, logistics hay công nghiệp chế biến sâu.
TS. Phạm Vũ Quốc Bình, Phó Cục trưởng Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên (Bộ GD&ĐT)
Chương trình đào tạo cần được cập nhật thường xuyên, tích hợp kỹ năng số và kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo. Giáo dục nghề nghiệp không thể chỉ đào tạo lao động trong các ngành truyền thống, mà phải hướng tới hình thành lực lượng “lao động số”, có khả năng làm chủ máy móc hiện đại và thích ứng nhanh với biến động công nghệ.
Một điểm nhấn đặc biệt là phong trào “Bình dân học vụ số”, nhằm phổ cập kỹ năng số cho mọi tầng lớp lao động. Từ công nhân nhà máy tới nông dân vùng cao, tất cả đều cần được trang bị kiến thức cơ bản để không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình chuyển đổi số. Đây không chỉ là một giải pháp giáo dục, mà còn là chiến lược xã hội mang tính toàn dân, toàn diện.
Song song với đó, hợp tác quốc tế phải được đẩy mạnh. Chỉ khi liên kết với các trường nghề tiên tiến trên thế giới, Việt Nam mới có thể chuẩn hóa chương trình, nâng cao năng lực giảng dạy và mở ra cơ hội toàn cầu cho người học.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, truyền thông càng có vai trò định hình hình ảnh và uy tín của các trường nghề. Khi những câu chuyện thành công của học viên được lan tỏa, khi hình ảnh học nghề gắn liền với cơ hội việc làm tốt, xã hội sẽ dần thay đổi định kiến. Truyền thông hiện đại chính là công cụ giúp GDNN biến “học nghề” thành sự lựa chọn ưu tiên của giới trẻ.
Giáo dục nghề nghiệp không đơn thuần là câu chuyện đào tạo kỹ năng, mà là câu chuyện kiến tạo tương lai của đất nước. Như lời TS. Phạm Vũ Quốc Bình khẳng định: “Tương lai ấy chỉ có thể được kiến tạo bằng những đôi tay, khối óc và trái tim của chính những người lao động Việt Nam, được đào tạo, hun đúc trong một nền giáo dục nghề nghiệp hiện đại, hội nhập và nhân văn”.