Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) - đã đưa ra những khuyến nghị giúp ngành dệt may tận dụng tốt hơn C/O ưu đãi, khai thác sâu hơn các Hiệp định thương mại tự do (FTA).
Tỷ lệ tận dụng có tăng nhưng chưa đạt kỳ vọng
- Ông đánh giá thế nào về tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do của doanh nghiệp dệt may Việt Nam?
Ông Ngô Chung Khanh: Tỷ lệ này đang có tiến triển tích cực, mặc dù chưa được như kỳ vọng. Trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA), chúng tôi thấy, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng C/O ưu đãi đang tăng dần. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điểm phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, chúng ta có thể làm tốt hơn.
margin: 15px auto;" />Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương. Ảnh: Quốc Chuyển
Hiện trạng này xuất phát từ hai nguyên nhân lớn.
Thứ nhất, yêu cầu về quy tắc xuất xứ đối với dệt may trong các hiệp định này khá chặt: CPTPP đòi ba công đoạn (sợi, vải, cắt may) EVFTA và UKVFTA là hai công đoạn (vải và cắt may). Dù hai hay ba công đoạn thì với thực trạng ngành dệt may Việt Nam hiện nay vẫn còn vướng, bởi lẽ khả năng sản xuất nguyên phụ liệu, đặc biệt là vải, chưa đáp ứng nhu cầu. Chúng ta vẫn nhập khẩu nhiều vải từ những nước không thỏa điều kiện để tính xuất xứ theo hiệp định, nên tỷ lệ dùng C/O ưu đãi bị ảnh hưởng.
Thứ hai, khó khăn nội tại của doanh nghiệp, tư duy vận hành và lợi ích ngắn hạn. Nhiều doanh nghiệp quen làm theo cách truyền thống nhập nguyên liệu rẻ, tiện, làm gia công và hưởng biên lợi nhuận thấp. Để chuyển sang tận dụng ưu đãi phải mất thời gian, công sức và tiền bạc đầu tư cho phát triển nguồn nguyên phụ liệu đó là bài toán chi phí và lợi ích. Vấn đề then chốt là doanh nghiệp phải xác định muốn đi theo chiến lược dài hạn, bền vững hay tiếp tục lấy ngắn hạn. Khi chấp nhận đầu tư có chiến lược, hướng tới thị trường FTA cam kết tốt, giá trị xuất khẩu sẽ cao hơn và bền vững hơn. Đồng thời, dễ xây dựng thương hiệu, minh bạch chuỗi cung ứng và đáp ứng quy tắc xuất xứ.
- Trong giai đoạn 5 năm tới, ngành dệt may Việt Nam tập trung đa dạng thị trường, đẩy mạnh tận dụng FTA. Để đạt mục tiêu này, theo ông, doanh nghiệp cần làm gì?
Ông Ngô Chung Khanh: Đa dạng hóa thị trường là đúng, nhưng phải có trọng tâm.
Thứ nhất, doanh nghiệp cần có chiến lược thị trường rất rõ ràng: Phân bổ tỷ trọng xuất khẩu cụ thể cho từng khu vực: Hoa Kỳ bao nhiêu phần ang, EU bao nhiêu, Vương quốc Anh, Canada, Trung Đông, Nam Mỹ… Trên cơ sở phân bổ đó, bộ ngành, hiệp hội, địa phương và doanh nghiệp sẽ cùng xây kế hoạch chi tiết ai làm gì để hỗ trợ, ai chịu trách nhiệm kết nối, ai chịu trách nhiệm phát triển sản phẩm phù hợp từng thị trường.
Thứ hai, doanh nghiệp cần chuyển đổi tư duy từ gia công sang định vị giá trị. Theo đó, đầu tư để nâng chất lượng, minh bạch hóa chuỗi cung ứng, cam kết tiêu chuẩn phát triển bền vững. Khi xuất khẩu vào thị trường FTA lớn, giá trị cao hơn nên biên lợi nhuận tốt hơn, bù đắp chi phí đầu tư ban đầu. Việc này còn giúp dựng thương hiệu Việt có tầm cỡ khu vực, quốc tế.
Thứ ba, cần có kế hoạch đo lường. Ngoài kim ngạch xuất khẩu tổng, phải có chỉ tiêu cụ thể cho kim ngạch xuất khẩu mang thương hiệu dệt may Việt Nam. Có con số này mới xác định được tiến độ, chính sách và hỗ trợ cần thiết để nâng dần tỷ lệ.
Cuối cùng, doanh nghiệp phải chủ động hợp tác, kết nối, không thể làm riêng lẻ. Phải có cơ chế để cùng tiến cùng lùi, chia sẻ chuỗi cung ứng, gom đơn hàng để đạt quy mô cần thiết cho việc áp dụng C/O ưu đãi.
Hoàn thiện chuỗi cung ứng, khai thác tối đa ưu đãi C/O
- Về việc tận dụng C/O ưu đãi, nút thắt lớn nhất của ngành dệt may vẫn là nguồn cung thiếu hụt, vậy làm cách nào để giải bài toán này một cách thực chất nhất, thưa ông?
Ông Ngô Chung Khanh: Giải pháp ở đây là ba trụ cột: Kết nối chuỗi nội bộ, thu hút đầu tư và cải cách chính sách.
Theo đó, về kết nối, phải kết nối giữa “người cần” và “người có”. Chúng ta đã có sản xuất vải trong nước nhưng chưa kết nối đủ chặt với nhà sản xuất may. Nếu liên kết tốt, sẽ giảm phần nhập khẩu. Việc này không đòi hỏi sáng tạo thông tin mới mà là tổ chức, kết nối, hợp đồng dài hạn giữa nhà sản xuất vải và nhà may để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định.
Về thu hút đầu tư, đặc biệt vốn FDI cho chuỗi dệt nhuộm, vải công nghệ. Muốn phát triển nguyên phụ liệu cần vốn. Vốn chỉ chảy vào khi chính sách rõ ràng, ổn định và địa phương sẵn sàng tiếp nhận. Bộ, ngành đã nhiều lần đề xuất rà soát chính sách để khuyến khích địa phương đón các dự án dệt, nhuộm đi kèm là giải quyết nghiêm túc các tiêu chí môi trường, quy chuẩn phù hợp để nhà đầu tư an tâm. Nếu chính sách được rà soát và xử lý, chúng ta có thể thu hút các dự án lớn ví dụ có doanh nghiệp quốc tế sẵn sàng đầu tư quy mô lớn để biến Việt Nam thành cứ điểm sản xuất vải công nghệ cao. Đó là cơ hội lớn nhưng chỉ tận dụng được khi thể chế không là điểm nghẽn.
Cải cách thể chế và cơ chế hỗ trợ, thể chế là điểm nghẽn, nếu không xử lý kịp, dự án đầu tư có thể bị vướng và không triển khai được. Phải rà soát các thủ tục, tiêu chí, ưu đãi cho đầu tư vào chuỗi nguyên phụ liệu, đồng thời tạo tâm lý an tâm cho địa phương tiếp nhận dự án. Khi thể chế thông thoáng, nguồn lực FDI vào ngành sẽ giúp nâng năng lực cung ứng trong nước, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa và khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ.
Cùng đó là sự chuẩn bị của doanh nghiệp lớn và vai trò dẫn dắt. Nhiều tập đoàn lớn trong nước đã đầu tư và đang đáp ứng một phần nhu cầu nguyên phụ liệu; họ có thể đóng vai trò dẫn dắt, tạo cơ chế liên kết vùng và chuỗi cung ứng. Sự tham gia của các doanh nghiệp lớn làm đòn bẩy cho sự chuyển đổi của cả ngành.
Trân trọng cảm ơn ông!
Tăng tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi không phải chuyện một sớm một chiều mà đòi hỏi doanh nghiệp thay đổi tư duy, có chiến lược thị trường rõ ràng, đầu tư chiều sâu để nâng giá trị; đòi hỏi liên kết chuỗi, thu hút đầu tư vào nguyên phụ liệu và đặc biệt là cải thiện thể chế để không làm tắc các khoản đầu tư lớn. Nếu doanh nghiệp và cơ quan quản lý cùng hành động có trọng tâm, tập trung vào các thị trường FTA lớn mà ta đã có cam kết thuận lợi, lợi thế người đi trước sẽ giúp ngành dệt may gia tăng giá trị, nâng thương hiệu và tận dụng tốt hơn các ưu đãi mà FTA mang lại.

