Quy hoạch điện VIII đã được nghiên cứu, xây dựng một cách bài bản, khoa học, lấy ý kiến rộng rãi, trong đó có các ý kiến từ các đối tác quốc tế, các định chế tài chính song phương và đa phương theo hướng giảm dần sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hoá thạch, tập trung gia tăng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như thuỷ điện, điện gió trên bờ và ngoài khơi, điện mặt trời và điện sinh khối... giảm phát thải khí nhà kính.
Một số nội dung đáng lưu ý của Dự thảo Quy hoạch điện VIII: Ưu tiên phát triển khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện. Năng lượng tái tạo (tính cả thủy điện) sẽ chiếm khoảng 30.9%-39.2% điện năng sản xuất vào năm 2030 và khoảng 67.5%-71.5% vào năm 2050, cụ thể:
Điện than:
Chỉ thực hiện các dự án đã có trong Quy hoạch điện VII và bắt đầu từ năm 2030 sẽ không xây dựng nhà máy điện than mới. Các nhà máy nhiệt điện than định hướng sau tuổi thọ kỹ thuật (khoảng 40 năm) sẽ dừng vận hành và sẽ được xem xét chuyển sang nhiên liệu sinh khối và amoniac trước năm 2050.
Nhà máy nhiệt điệt. Ảnh minh họa. |
Cơ cấu sử dụng nguồn điện than sẽ giảm xuống. Theo đó, tới năm 2050 sẽ không còn sử dụng điện than để cung cấp cho lưới điện quốc gia. Đề xuất các phương án thay thế điện than bằng các nguồn điện khác như điện gió và điện sinh khối.
Điện khí:
Nhiệt điện khí nguồn từ mỏ khí trong nước: Ưu tiên phát triển các dự án điện khí sử dụng tối đa nguồn khí trong nước. Từ nay đến năm 2030, tập trung phát triển 2 chuỗi dự án khí – điện tổng công suất mới 6,900 MW, tại Cụm nhà máy Lô B và Cụm nhà máy Cá Voi Xanh. Ngoài 2 chuỗi dự án trên, dự kiến sẽ phát triển thêm các dự án nhà máy điện hạ nguồn nếu điều kiện cho phép.
Nhà máy điện khí. Ảnh minh họa. |
Các nhà máy điện khí tự nhiên sẽ chuyển dần sang sử dụng Hydro sau 10 năm vận hành. Để đến năm 2050, phần lớn các nhà mát điện khí tự nhiên sẽ sử dụng Hydro. - Nhiệt điện khí LNG nhập khẩu:
Hạn chế phát triển các nguồn điện sử dụng LNG nếu có phương án thay thế để tránh phụ thược vào nhập khẩu. Giãn tiến độ LNG Long Sơn (1,500MW) sang giai đoạn 2031-2035. Tiếp tục thực hiện dự án kho, cảng nhập khẩu LNG tại Thị Vải, Sơn Mỹ và phát triển hệ thống kho, cảng nhập khẩu LNG đồng bộ với các nhà máy điện trong quy hoạch. Năm 2030, tổng công suất các nguồn điện LNG tối đa đạt 22,400 MW, sản xuất 84.5 tỷ kWh (14.7% tổng điện năng sản xuất).
Định hướng 2050, chuyển dầng sang dùng hydro, sản xuất tương đương 9.4%- 11.25% tổng sản lượng điện năng
Điện mặt trời, điện gió:
Xác định ưu tiên phát triển mạnh điện gió trên bờ và điện gió ngoài khơi. Theo đó, công suất điện gió trên bờ dự kiến lên tới 21,880 MW và điện gió ngoài khơi là 6,000 MW vào năm 2030, định hướng đạt 70,000-91,500 MW vào 2050. Ước tính công suất nguồn điện gió ngoài khơi để sản xuất năng lượng mới vào khoảng 15,000 MW vào năm 2035. Ưu tiên phát triển không giới hạn công suất điện mặt trời mái nhà và điện mặt trời tự sản, tự tiêu. Điện mặt trời thực hiện theo cơ chế mua bán điện trực tiếp DPPA thí điểm khoảng 1,000 MW
Điện gió được ưu tiên phát triển. Ảnh minh họa |
Quy hoạch điện VIII được giới khoa học đánh giá cao về tư duy đổi mới và khả năng phát triển các dự án năng lượng tái tạo ưu tiên sử dụng tại chỗ để giảm áp lực lên hệ thống truyền tải; quy hoạch mở trong phát triển các nguồn điện, trung tâm năng lượng ở những khu vực nhiều tiềm năng; lộ trình, tiêu chí loại bỏ các nhà máy nhiệt điện hiệu suất thấp, khả năng chuyển đổi kém.
Quy hoạch điện VIII được kì vọng sẽ cung cấp đầy đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021 - 2030, khoảng 6,5 - 7,5%/năm trong giai đoạn 2031 - 2050. Tiêu chí kỳ vọng xác xuất mất tải 12 giờ/năm, tương ứng với độ tin cậy cung cấp điện đạt 99,86% (tương đương với các nước trên thế giới).
Thành An
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|