Dư địa nào cho xuất khẩu viên nén gỗ Việt?

(Banker.vn) Dư địa thị trường xuất khẩu và nội địa cho viên nén gỗ rất lớn, tuy nhiên, vẫn đang tồn tại một số yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của ngành.
Những thay đổi về chính sách từ các thị trường nhập khẩu gỗ chính của Việt Nam Doanh nghiệp FDI chiếm gần 50% kim ngạch xuất khẩu ngành gỗ Miếng bánh viên nén gỗ 31 tỷ USD, doanh nghiệp Việt làm gì để giành phần?

Dự báo quy mô xuất khẩu viên nén gỗ năm 2023 sẽ giảm 17% so với năm ngoái

Sau thời gian “sốt” năm 2022 với lượng xuất khẩu viên nén gỗ tăng 30% và giá xuất khẩu tăng 150 - 200% so với năm 2021, hiện xuất khẩu viên nén sụt giảm cả về lượng và đơn giá xuất khẩu, đặc biệt là tại thị trường Hàn Quốc. Nếu đà xuất khẩu như hiện nay được duy trì, quy mô xuất khẩu viên nén gỗ năm 2023 sẽ tụt khoảng 15 - 17% so với năm 2022.

Viên nén gỗ (ảnh Nguyễn Hạnh)
Viên nén gỗ. Ảnh Nguyễn Hạnh

Trong 9 tháng năm 2023, trong khi lượng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đạt 2 triệu tấn, tương đương gần 82% lượng xuất khẩu vào thị trường này năm 2022, lượng xuất khẩu vào Hàn Quốc chỉ đạt gần 1,3 triệu tấn, tương đương 56% lượng xuất vào thị trường này trong cả năm 2022.

Chia sẻ từ một số doanh nghiệp xuất khẩu cho thấy lượng viên nén của Việt Nam xuất sang Hàn Quốc giảm không phải là giảm cầu tại thị trường này mà do các doanh nghiệp Hàn Quốc nhập khẩu viên nén từ các nguồn cung khác, bao gồm cả nguồn cung từ Nga.

Ngành viên nén Việt Nam vẫn có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt tại Nhật Bản. Theo đánh giá của các doanh nghiệp viên nén, nhu cầu tiêu thụ viên nén gỗ tại Nhật Bản sẽ mở rộng gấp 3 lần so với hiện tại. Hiện Việt Nam đang cung khoảng 80% viên nén cho thị trường này. Cơ hội mở rộng thị phần tại đây là rất lớn.

Viên nén xuất khẩu vào Nhật Bản đòi hỏi cần có chứng chỉ bền vững. Do nguồn cung viên nén làm từ vỏ dầu cọ (PKS) có nguồn gốc từ Indonesia có thể sẽ không đạt được chứng chỉ và do vậy không đáp ứng được yêu cầu của thị trường Nhật Bản. Nếu điều này xảy ra, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội thay thế nguồn cung PKS từ Indonesia.

Tại thị trường Hàn Quốc, dư địa phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai không nhiều. Quy mô của thị trường này không có nhiều thay đổi. Đây là thị trường tương đối dễ tính, chấp nhận các nguồn cung với chất lượng và tiêu chuẩn không cao. Hiện một số doanh nghiệp của Hàn Quốc, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, vẫn tiếp tục mua nguồn viên nén từ Nga. Hàn Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới còn sử dụng nguồn cung từ Nga.

Theo một số doanh nghiệp Việt Nam hiện đang xuất khẩu viên nén vào Hàn Quốc, một số nhà mua lớn của Hàn Quốc đang bắt đầu đòi hỏi các bằng chứng về truy xuất nguồn gốc. Theo đánh giá của các doanh nghiệp này, trong 4 - 5 năm tới, yêu cầu truy xuất nguồn gốc sản phẩm sẽ là bắt buộc đối với các sản phẩm xuất khẩu vào Hàn Quốc.

Vẫn đang đối diện với nhiều khó khăn

Mặc dù mới chỉ hình thành trong thời gian ngắn, ngành viên nén đã trở thành một hợp phần quan trọng của ngành chế biến gỗ. Ngành vẫn đang tiếp tục mở rộng và còn nhiều dư địa để phát triển trong tương lai, cả ở thị trường xuất khẩu và nội địa. Tuy nhiên ngành đang phải đối mặt với một số khó khăn trực tiếp ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững.

Một trong những khó khăn lớn nhất là tính chưa bền vững về nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào kể cả về lượng và về tiêu chuẩn, chất lượng. TS Tô Xuân Phúc – Giám đốc điều hành Chương trình Chính sách, Thương mại và Tài chính Lâm nghiệp Tổ chức Forest Trends nhận định, giải quyết các khó khăn này đòi hỏi Chính phủ cần có các cơ chế chính sách hợp lý, đặc biệt là chính sách về cân bằng giữa năng lực chế biến và vùng nguyên liệu rừng trồng.

Cụ thể, các cơ quan quản lý tại các địa phương cần tính toán khả năng cung gỗ nguyên liệu của các diện tích rừng trồng (và các cơ sở chế biến) trong phạm vi địa phương của mình, đánh giá năng lực và công suất của các dự án chế biến, dựa trên đó quyết định cấp phép cho các dự án này theo khả năng cung nguyên liệu.

Quyết định này cần đảm bảo công suất chế biến của các doanh nghiệp sử dụng cùng nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào (ví dụ cùng nguồn gỗ rừng trồng) không vượt quá khả năng cung nguyên liệu của vùng. Quyết định này cũng đòi hỏi những tính toán về mối tương tác và cạnh tranh giữa các hợp phần chế biến của các doanh nghiệp sử dụng gỗ rừng trồng – bao gồm các cơ sở chế biến đồ gỗ, ván bóc, ván ép, dăm, viên nén…

Quyết định phê duyệt đầu tư dựa trên việc cân nhắc các khía cạnh này sẽ giúp làm giảm tính cạnh tranh không bền vững về nguồn nguyên liệu đầu vào giữa các doanh nghiệp thuộc các hợp phần khác nhau của ngành gỗ và giữa các doanh nghiệp trong cùng hợp phần. Điều này sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp trong ngành viên nén (và trong các hợp phần khác của ngành gỗ) phát triển bền vững hơn.

Với tính chất hiện nay, ngành viên nén gỗ xứng đáng để nhận được sự quan tâm hơn cả về mặt cơ chế chính sách. Gỗ nguyên liệu đầu vào của ngành hiện là các phần phụ phẩm của ngành chế biến và/hoặc của nguồn gỗ rừng trồng.

Do là phụ phẩm, phần nguyên liệu này thường không được đánh giá cao về giá trị kinh tế. Tại một số địa phương nơi chưa có sự hiện diện của cơ sở sản xuất viên nén, phần phụ phẩm này thậm chí đang được đốt bỏ.

Tuy nhiên, phần phụ phẩm này hiện đang đem lại kim ngạch gần 800 triệu USD mỗi năm thông qua xuất khẩu. Phần phụ phẩm này cũng đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần giảm phát thải khí nhà kính, không phải chỉ ở các quốc gia đang nhập khẩu sản phẩm này từ Việt Nam mà còn có tiềm năng giảm phát thải tại chính Việt Nam.

Tuy nhiên hiện nay ngành chưa nhận được cơ chế, chính sách nào nhằm thúc đẩy ngành phát triển bền vững. Các doanh nghiệp ngành viên nén xứng đáng để nhận được các cơ chế, chính sách dành riêng. Các cơ chế, chính sách có thể là những hỗ trợ trực tiếp dành cho các doanh nghiệp sản xuất (ví dụ ưu đãi trong tiếp cận vốn, công nghệ, đất đai…).

Cơ chế, chính sách hỗ trợ cũng có thể là gián tiếp, thông qua các công cụ nhằm khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu và tiêu thụ nội địa mặt hàng này, bao gồm ưu đãi về giá điện sử dụng viên nén, ưu đãi đối với các doanh nghiệp chuyển đổi từ nguyên liệu phát thải cao sang sử dụng viên nén. Thực hiện hiệu quả các cơ chế chính sách dành riêng cho ngành viên nén sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy ngành phát triển bền vững trong tương lai.

Nguyễn Hạnh

Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục