Đầu tư các tuyến cao tốc sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

(Banker.vn) (thitruongtaichinhtiente.vn) - Thẩm tra Chủ trương đầu tư 3 dự đường bộ cao tốc Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng (giai đoạn 1), Khánh Hòa-Buôn Ma Thuột (giai đoạn 1), Biên Hòa-Vũng Tàu (giai đoạn 1), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Uỷ ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư 3 dự án, việc đầu tư các tuyến cao tốc này sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các vùng có tuyến cao tốc đi qua, giúp tăng cường việc bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra Chủ trương đầu tư 03 dự đường bộ cao tốc

Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, sáng ngày 6/6, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể trình bày Tờ trình, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra về Chủ trương đầu tư các dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng (giai đoạn 1); Khánh Hòa-Buôn Ma Thuột (giai đoạn 1); Biên Hòa-Vũng Tàu (giai đoạn 1).

Thẩm tra Chủ trương đầu tư 3 dự đường bộ cao tốc (giai đoạn 1), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu rõ, Uỷ ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư 3 dự án với những lý do đã nêu tại Tờ trình Chính phủ nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng thông qua. Đồng thời, việc đầu tư các tuyến cao tốc này sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các vùng có tuyến cao tốc đi qua, giúp tăng cường việc bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cần đánh giá kỹ tính cấp thiết, khả năng bố trí nguồn lực, đánh giá tác động của việc sử dụng vốn đầu tư công triển khai cùng lúc nhiều dự án hạ tầng đối với lạm phát, khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu.

Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, các dự án được lập cơ bản phù hợp với Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng thông qua; Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phù hợp với quy hoạch có liên quan và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tuy nhiên, hiện nay các tỉnh thuộc phạm vi các dự án đang triển khai, thực hiện lập quy hoạch tỉnh, do đó Uỷ ban Kinh tế đề nghị các địa phương cần cập nhật, cụ thể hóa các dự án này trong quy hoạch tỉnh để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống quy hoạch, đặc biệt là việc kết nối thuận lợi cảng biển, cảng hàng không, các khu công nghiệp, du lịch, trung tâm logistics…; lựa chọn phương án hướng tuyến tối ưu, tiết kiệm, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.

Về sơ bộ tổng mức đầu tư, Uỷ ban Kinh tế đề nghị cần tiếp tục rà soát kỹ suất đầu tư và so sánh với các dự án cao tốc tương tự để làm rõ sơ bộ tổng mức đầu tư của các dự án này. Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, giá các loại vật tư, nhiên liệu tăng cao, do đó cần lưu ý, xem xét, tính toán dự phòng trong TMĐT. Đồng thời, cần báo cáo, làm rõ hơn các chi phí thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đặc biệt liên quan đến việc chuyển mục đích sử dụng rừng, đất lúa.

Về tiến độ hoàn thành, một số ý kiến cho rằng việc triển khai thực hiện nhiều dự án đường cao tốc với quy mô yêu cầu kỹ thuật phức tạp trong cùng một thời gian ngắn sẽ cần một nguồn lực rất lớn, trong khi các địa phương được giao triển khai thực hiện 3 dự án cũng chưa có kinh nghiệm về tổ chức thực hiện dự án đường cao tốc. Do đó, Uỷ ban Kinh tế đề nghị cần phải đánh giá đầy đủ hơn về khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, thi công để có giải pháp kịp thời, đồng bộ.

Cùng với đó, Chính phủ và các địa phương cần cam kết trách nhiệm tổ chức thực hiện bảo đảm hiệu quả, tiến độ, chất lượng cho các dự án này và các dự án quan trọng khác cùng được triển khai, đồng thời cần tăng cường vai trò của Bộ Giao thông vận tải trong việc tổ chức thực hiện.

Về thu hồi vốn đầu tư, Chính phủ dự kiến sau khi các dự án hoàn thành sẽ thực hiện nhượng quyền thu phí để thu hồi vốn hoàn trả vào ngân sách nhà nước, tuy nhiên, Uỷ ban Kinh tế đề nghị làm rõ cơ chế hoàn trả đối với tỷ lệ vốn góp của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Đồng thời đề nghị cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật về thu phí để bảo đảm thực hiện thành công việc nhượng quyền thu phí.

Trước đó, báo cáo trước Quốc hội về các dự án trên, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể cho biết, việc sớm đầu tư 3 dự án là hết sức cấp thiết nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết, Thông báo của Bộ Chính trị và đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, giải quyết điểm nghẽn về hạ tầng giao thông vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, phát huy tiềm năng, khai thác lợi thế của vùng Tây Nguyên, vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Cùng với đó, việc xây dựng 3 dự án còn giúp cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia nói chung, các vùng Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long nói riêng; tạo tiền đề, động lực và không gian mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, xóa đói giảm nghèo; phát triển phương thức vận tải bền vững hiện đại, góp phần giảm tai nạn giao thông.

Việc triển khai đầu tư dự án phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025; Quy hoạch mạng lưới đường bộ, Quy hoạch sử dụng đất quốc gia và Kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm 2021 - 2025, quy hoạch các ngành, các địa phương.

Về dư kiến tiến độ và thời gian thực hiện dự án, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể nêu rõ, Chính phủ đã xây dựng một số cơ chế chính sách đặc thù, nếu được áp dụng, dự kiến chuẩn bị đầu tư năm 2022, khởi công năm 2023, dự án Biên Hòa - Vũng Tàu cơ bản hoàn thành năm 2025; dự án Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng cơ bản hoàn thành một số đoạn có lưu lượng lớn năm 2025 và toàn tuyến năm 2026.

Theo:
    Bài cùng chuyên mục