Rủi ro tiềm ẩn

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đến hết năm 2025 có thể đạt trên 900 tỷ USD, đây là một mốc kỷ lục trong bối cảnh thị trường thế giới nhiều bất ổn. Tuy nhiên, đi cùng với cơ hội là những yêu cầu ngày càng chặt chẽ về xuất xứ, truy xuất nguồn gốc và minh bạch chuỗi cung ứng, đặt doanh nghiệp trước bài toán tuân thủ nghiêm ngặt hơn bao giờ hết.

Đây là một thành tích rất có ý nghĩa, là sự góp sức của cộng đồng doanh nghiệp cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Chính phủ, trong bối cảnh năm 2025 thị trường có những biến động rất lớn, từ chính sách thuế quan của Hoa Kỳ đến đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) - nhìn nhận.

margin: 15px auto;" />

C/O được ví như "giấy thông hành" cho doanh nghiệp tiến vào thị trường xuất khẩu. Ảnh minh hoạ

Tuy nhiên, đối với hoạt động xuất khẩu, thực tế cho thấy, không ít doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức đầy đủ về rủi ro khi không tuân thủ đúng quy định về xuất xứ. Ông Lê Sỹ Giảng - Giám đốc điều hành Công ty CHG Consulting & Advisory - cho hay, rủi ro pháp lý liên quan đến xuất xứ là rủi ro khách quan và luôn hiện hữu.

Chúng ta không nên mong rủi ro sẽ không xảy ra, mà điều quan trọng là phải dự báo và chuẩn bị ứng phó. Hiện nay, do dịch chuyển chuỗi cung ứng, nhiều nước nhập khẩu nghi ngờ hàng hóa Việt Nam có nguồn gốc từ nước khác hay không. Nếu doanh nghiệp không chứng minh được xuất xứ rõ ràng, rủi ro sẽ xảy ra ngay lập tức”, ông Giảng nhấn mạnh.

Những “lỗi” phổ biến mà doanh nghiệp thường gặp phải có thể kể đến như: Không đáp ứng được quy tắc xuất xứ do tỷ lệ nguyên phụ liệu nhập khẩu ngoài khối hiệp định thương mại tự do quá cao; hệ thống sổ sách, hóa đơn, chứng từ không đầy đủ hoặc không nhất quán; không lưu trữ được hồ sơ chứng minh nguồn gốc đầu vào và đầu ra; hoặc đáp ứng được điều kiện nội dung nhưng lại sai quy trình, thủ tục xin cấp C/O.

Ở góc độ chính sách, TS. Nguyễn Thị Thu Trang - Chuyên gia pháp luật và Hội nhập kinh tế quốc tế - cho rằng, hồ sơ xuất xứ có hai nhóm rõ rệt: Xuất xứ ưu đãi và xuất xứ không ưu đãi. Với xuất xứ ưu đãi, doanh nghiệp buộc phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của từng hiệp định. Với xuất xứ không ưu đãi, dù không có quy định chi tiết như hiệp định thương mại tự do, doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo minh bạch, trung thực và lưu trữ đầy đủ hồ sơ để tránh nguy cơ bị cáo buộc gian lận hoặc chuyển tải bất hợp pháp.

Đáng chú ý, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan từ các hiệp định thương mại tự do hiện nay của Việt Nam chỉ dao động khoảng 30 - 35%, thấp hơn kỳ vọng. Nguyên nhân không chỉ đến từ hạn chế về năng lực đáp ứng quy tắc xuất xứ, mà còn do nhiều doanh nghiệp chưa đầu tư đúng mức cho quản trị chuỗi cung ứng, chưa coi xuất xứ là một phần trong chiến lược dài hạn.

Trong bối cảnh các thị trường lớn như Hoa Kỳ gia tăng các biện pháp bảo hộ, áp thuế trừng phạt với hàng hóa không đáp ứng yêu cầu xuất xứ, rủi ro đối với doanh nghiệp càng rõ nét hơn.

Bộ Công Thương đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp

Trước những thách thức đó, Bộ Công Thương xác định hỗ trợ doanh nghiệp tuân thủ và tận dụng tốt quy định về xuất xứ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2026 và giai đoạn tiếp theo.

26/34 địa phương sẵn sàng thực hiện cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Ảnh minh hoạ: H.Nụ

Theo ông Trần Thanh Hải, đến nay đã có 26/34 địa phương sẵn sàng thực hiện cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Đây là bước tiến quan trọng trong phân cấp, phân quyền, giúp doanh nghiệp giảm thời gian, chi phí và tiếp cận dịch vụ công thuận lợi hơn.

Việc các địa phương triển khai cấp C/O thể hiện sự quyết liệt trong hỗ trợ doanh nghiệp. Về phía Cục Xuất nhập khẩu, chúng tôi phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công tác tập huấn, nâng cao năng lực cán bộ để nắm vững các quy định mới và thực hiện cấp C/O một cách chính xác”, ông Hải cho biết.

Trong năm 2026, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, hướng dẫn, chuẩn hóa quy trình cấp C/O, đồng thời đảm bảo việc cấp giấy chứng nhận được thực hiện nhanh, hiệu quả và chính xác. Đây là yếu tố then chốt, bởi chỉ cần một sai sót trong khâu chứng nhận, hàng hóa có thể bị đối tác từ chối hoặc bị nghi ngờ gian lận xuất xứ, gây hệ lụy trực tiếp cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Bộ cũng chú trọng cung cấp thông tin, dự báo chính sách thị trường, đặc biệt là các yêu cầu mới liên quan đến thuế môi trường, chuyển đổi xanh, như cơ chế điều chỉnh carbon biên giới của EU. Những yêu cầu này tuy không trực tiếp là quy tắc xuất xứ, nhưng gắn chặt với minh bạch chuỗi cung ứng vốn là yếu tố ngày càng được lồng ghép trong các tiêu chuẩn nhập khẩu.

Ở góc độ doanh nghiệp, các chuyên gia đều thống nhất rằng, tuân thủ quy tắc xuất xứ không thể chỉ là giải pháp tình thế. Doanh nghiệp cần coi đây là một phần của chiến lược dài hạn, gắn với nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu và từng bước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Như ông Lê Sỹ Giảng nhận định: “Điều doanh nghiệp kiểm soát được là quản trị nội bộ. Từ hiểu biết về rào cản, quản lý chất lượng đến ghi nhận đầy đủ chu trình sản xuất. Khi hệ thống minh bạch, doanh nghiệp sẽ chủ động hơn rất nhiều trước các yêu cầu truy xuất nguồn gốc hay xuất xứ”.

Trong bối cảnh xuất khẩu được kỳ vọng tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng, việc tuân thủ nghiêm túc quy định về chứng nhận xuất xứ không chỉ giúp doanh nghiệp tận dụng ưu đãi thuế quan, mà còn là “lá chắn” cần thiết để giảm thiểu rủi ro, giữ vững thị trường và mở ra cơ hội xuất khẩu bền vững trong những năm tới.

Bộ Công Thương tiến hành phân cấp, phân quyền về cho địa phương thực hiện chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Điều này không chỉ tăng tính chủ động cho các tỉnh, thành phố mà còn giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, góp sức xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh tốt nhất cho doanh nghiệp.