Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều đóng góp giúp định hình một thế giới tốt đẹp hơn

(Banker.vn) TIME, một trong những tờ báo nổi tiếng và uy tín nhất nước Mỹ đã nhận định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật đã làm thay đổi dòng chảy lịch sử nhân loại, làm nên lịch sử hiện đại và là nhân vật vĩ đại nhất châu Á trong thế kỷ XX”.
anh-4-2-.jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với nhân dân Tiệp Khắc vào tháng 7/1957. Ảnh tư liệu lịch sử

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng minh sâu sắc quan điểm “cách mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”

Trên hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân (1911-1941), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến các nước tư bản tiên tiến nhất là Pháp, Mỹ, Anh, Đức… và các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Người đã phân tích các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu nhất thời cận đại và chỉ rõ bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa phương Tây là “trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”[1]. Do đó, Người đã đưa ra kết luận: “cách mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi”[2].

Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhớ lại: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[3].

Về bản chất tốt đẹp của chế độ chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”[4]. Bên cạnh đó, Người cũng chỉ ra: “Chế độ cộng sản là ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức”[5].

Phát biểu tại Hà Nội vào ngày 12/9/1973 trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên, Chủ tịch Cuba Fidel Castro nhấn mạnh: “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng xã hội là hai điểm then chốt trong học thuyết của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thấy rằng các dân tộc lạc hậu do sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân có thể có những bước nhảy vọt trong lịch sử và xây dựng nền kinh tế của mình theo con đường xã hội chủ nghĩa, không phải trải qua sự hy sinh và những nỗi kinh hoàng của chủ nghĩa tư bản… Chúng tôi nghĩ rằng tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới sẽ tìm thấy trong cuộc đời đồng chí Hồ Chí Minh, trong tư tưởng chính trị của Người, trong quan điểm chiến thuật và chiến lược trong sáng của Người, một nguồn tri thức vô cùng phong phú để giải quyết những vấn đề của bản thân mình”[6].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần đào sâu và phát triển lý luận của chủ nghĩa Lênin đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa và Người làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công

Cuối năm 1923, Chủ tịch Hồ Chí Minh theo học Trường Đại học Cộng sản của những người lao động phương Đông tại Liên Xô. Trường thành lập tại Mátxcơva vào năm 1921, theo quyết định của V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, nhằm mục đích đào tạo cán bộ cách mạng trước hết cho các nước phương Đông thuộc Liên Xô và các nước thuộc địa và phụ thuộc. Từ năm 1934-1938, tại Liên Xô, Người theo học Trường Quốc tế Lênin và sau đó làm việc tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấy được sức mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện tập trung ở các thuộc địa chứ không phải ở các chính quốc. Vào tháng 6/1924 tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Người đã phê phán các ý kiến xem thường cách mạng ở thuộc địa: “Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi không thể không nói với các đồng chí rằng, sau khi nghe những lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi… Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng các đồng chí lại khinh thường thuộc địa”[7].

Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm hết sức mới mẻ: “cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”[8] và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[9].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến khẩu hiệu của V.I.Lênin “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” thành hiện thực với “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” (1921), “Hội những người bị áp bức” (1925). Bên cạnh đó, tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) của Người đã làm sáng tỏ thêm quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” (6/1/1960), Người nhấn mạnh đây là “thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa”[10]. Trong cuốn “Thế giới bàn về Việt Nam”, Thomas Hodgkin đánh giá Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một sự kiện “quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga”[11] và đây là sự kiện đã “đánh dấu sự bắt đầu của một thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”[12].

Tiếp đó là Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”[13]. Chỉ 4 năm sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, năm 1960 đã đi vào lịch sử nhân loại với tên gọi “Năm Châu Phi” với 17 nước châu Phi đã tuyên bố độc lập. Đến 1968, có tới 39 nước ở châu lục này (gồm 85% lãnh thổ và 93% dân số) đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến giành độc lập dân tộc.

Ngày 25/9/1969, tại một cuộc mít-ting ở thủ đô Tokyo (Nhật Bản) để tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Giáo sư Singo Sibata đã đánh giá: “Trước tiên chúng ta phải nhìn thấy những cống hiến của Người đã góp phần đào sâu và phát triển lý luận của chủ nghĩa Lênin đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa... Những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự mở ra một giai đoạn mới trong những lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Dạo ấy có rất ít những người Mác-xít như Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ra ở một nước thuộc địa và bản thân đã trải qua một cuộc sống như ở Việt Nam cũng như ở nhiều thuộc địa khác. Bản thân Lênin cũng không có kinh nghiệm như vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số rất ít những người Mác-xít có những kinh nghiệm như thế. Chính điều này đã cho phép Người phát triển hơn nữa lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa”[14].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển quyền con người thành quyền dân tộc

anh-3-2-.jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh trồng cây ở thành phố Bangalore (bang Karnataka) trong chuyến thăm Ấn Độ của Người vào tháng 2/1958. Ảnh tư liệu lịch sử

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn cứ vào Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 là “những lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người để “suy rộng ra” rằng: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[15].

Đánh giá về cống hiến này của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Giáo sư Nhật Bản Singo Sibata nêu rõ: “Cống hiến nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc”[16].

Những giá trị to lớn và ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc vào ngày 2/9/1945 luôn mãi trường tồn với khát vọng của nhân loại. Đầu tiên, 15 năm sau Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), vào năm 1960, Liên Hiệp Quốc mới nhất trí và đưa ra Tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa. Đến năm 1970, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc mới nhất trí và ra đưa Tuyên bố chấm dứt vô điều kiện chế độ thuộc địa dưới mọi hình thức và mọi biểu hiện.

Tiếp đó, khi chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ thất bại hoàn toàn ở Việt Nam (30/4/1075), báo Asahi Shimbun (Nhật Bản) ngày 1/5/1975 đã viết trong một bài xã luận: “Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc với thắng lợi của lực lượng giải phóng, điều đó nói lên rằng, thời đại mà các nước lớn dùng sức mạnh bóp nghẹt chủ nghĩa dân tộc đã chấm dứt rồi”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem lại một cuộc sống có văn hóa cho nhân loại

Nhà thơ Xô Viết Osip Mandelstam, trong bài viết “Thăm một chiến sĩ cộng sản quốc tế - Nguyễn Ái Quốc” (Báo Ngọn lửa nhỏ - Ogoniok, Liên Xô, tháng 12/1923), đã nhận định rằng: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, không phải là văn hoá Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai”[17].

Tháng 9/1969, Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ xuất sắc của thế giới thứ ba, của các dân tộc đói nghèo và khát khao nhân phẩm. Người đã dạy họ trước hết phải dựa vào sức mình là chính để tự giải phóng, và một quốc gia chỉ có thể tồn tại nếu những con em của đất nước họ không chịu sống cuộc đời nô lệ. Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu biểu cho cuộc đời của những người nào biết nắm ngọn cờ giải phóng dân tộc bách chiến bách thắng, vượt qua mọi sóng gió thử thách, đã góp phần hy sinh, đã sống có ý nghĩa và danh dự, đã tự tay tạo ra đất nước mới, xã hội mới của mình”[18].

Ngày 5/9/1969, Ủy ban toàn quốc Đảng Cộng sản Mỹ cũng nhận định: “Tên tuổi của đồng chí Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại nhằm thực hiện một cộng đồng anh em thực sự của nhân dân các nước được hưởng quyền bình đẳng và được thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, một thế giới không có chiến tranh, không có sự tàn bạo, sự nghèo khổ và sự phân biệt đối xử”[19].

Tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990, Tiến sĩ Modagat Ahmet, Giám đốc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) phụ trách khu vực văn hóa châu Á - Thái Bình Dương, đã nhận định: “Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân loại bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại mang lại viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”[20].

Tính đến nay, đã có 35 tượng, tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng ở 20 nước thuộc châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi (Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Singapore, Sri Lanka, Lào, Thái Lan, Pháp, Nga, Hungary, Cuba, Venezuela, Argentina, Mexico, Chile, Panama, Dominica, Madagascar...). Có nhiều đường phố, đại lộ (riêng Pháp có 7 đường phố, Italy có 21 đường phố), 16 khu tưởng niệm và công viên, 6 bia tưởng niệm, 6 trường học mang tên Người ở nước ngoài.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2000, tr. 268

[2]Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 270

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 228

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 438

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 294

[6] “Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 78

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 296

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 36

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 36

[10] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2011, tr. 453

[11] Thomas Hodgkin, “Thế giới bàn về Việt Nam”, tập 2, Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976. tr. 224

[12] Thomas Hodgkin, “Thế giới bàn về Việt Nam”, tập 2, Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976. tr. 224

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 220

[14] Thế giới ca ngợi và thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 234

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 2

[16] Thế giới ca ngợi và thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 240

[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 478

[18] Những người bạn quốc tế của Bác Hồ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr 177

[19] Thế giới ca ngợi và thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 528-529

[20] UNESCO và Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (Trích tham luận của đại biểu quốc tế), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 37

Nguyễn Văn Toàn

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ
    Bài cùng chuyên mục