Cần phối hợp đồng bộ các chính sách để thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh, bền vững

(Banker.vn) Ngày 09/10/2024, tại Hà Nội, Tạp chí Ngân hàng phối hợp với Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội thảo “Giải pháp tài chính, tín dụng thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh và bền vững”.
Ngày 09/10/2024, tại Hà Nội, Tạp chí Ngân hàng phối hợp với Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội thảo “Giải pháp tài chính, tín dụng thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh và bền vững”.

Tham dự Hội thảo, về phía các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, các tổ chức tín dụng (TCTD), ngân hàng thương mại (NHTM), có PGS., TS. Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường; TS. Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; TS. Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam; ông Hoàng Minh Ngọc - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank); ông Nguyễn Trần Mạnh Trung - Phó Tổng Giám đốc NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank); ông Nguyễn Đức Hải - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH); ông Trần Phương - Phó Tổng Giám đốc NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam; ông Đinh Hồng Thái, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã (HTX) Việt Nam; ông Phạm Công Bằng, Tổng Giám đốc Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam.

Về phía các học viện và trường đại học có GS., TS. Phạm Bảo Dương - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang; PGS., TS. Nguyễn Đức Trung - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh; PGS.,TS. Phạm Thị Hoàng Anh - Phó Giám đốc phụ trách Ban Giám đốc Học viện Ngân hàng; PGS., TS. Lê Thanh Tâm - Trưởng Bộ môn, Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

Về phía đơn vị tổ chức Hội thảo có bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN; bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Ngân hàng.

Hội thảo còn có sự tham dự của đại diện lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các Hội đoàn thể; các TCTD, các doanh nghiệp, tổng công ty cổ phần; các chuyên gia kinh tế, tài chính - ngân hàng, các nhà khoa học đến từ các học viện, trường đại học và phóng viên đến từ các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài ngành Ngân hàng.

 

Bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Ngân hàng phát biểu khai mạc Hội thảo

Khai mạc Hội thảo, bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Ngân hàng chia sẻ, tại Việt Nam, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, là trụ đỡ của nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống Nhân dân và là vấn đề chiến lược luôn được Đảng, Nhà nước ta xác định là một trong các nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Ngân hàng Nguyễn Thị Thanh Bình cho biết, xuyên suốt thời gian qua, Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn nhằm phát triển tam nông. Theo đó, bám sát các chủ trương của Đảng và Chính phủ, ngành Ngân hàng luôn xác định “Tam nông” là một trong những lĩnh vực ưu tiên đầu tư vốn tín dụng và đã có nhiều chính sách, giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi để tăng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực này. NHNN đã thường xuyên rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động ngân hàng, tạo điều kiện mở rộng tín dụng và khả năng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của các tổ chức, cá nhân trong mọi lĩnh vực ngành, nghề, trong đó có lĩnh vực “Tam nông”. Từ năm 1999, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, trên cơ sở nhu cầu thực tế và quá trình phát triển của ngành nông nghiệp, NHNN đã hoàn thiện, tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP phù hợp hơn với yêu cầu đặt ra về tái cơ cấu, cơ cấu lại ngành nông nghiệp trong tình hình mới.

NHNN đã tích cực sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng để tạo thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; có chính sách khuyến khích TCTD giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, giảm hệ số rủi ro đối với các khoản vay vốn trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hoặc đầu tư vào lĩnh vực này thông qua tái cấp vốn.

Vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp, thực hiện hiệu quả quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, để người dân, doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, áp dụng cơ giới hóa, khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất, nâng cao chất lượng, tăng đầu tư vào chế biến để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, tín dụng lĩnh vực “Tam nông” còn gặp không ít khó khăn như: Biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp; cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn nhiều yếu kém, tiếp tục là thách thức lớn để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong quá trình phát triển, ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa vững chắc; chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế.

Phó Tổng Biên tập phụ trách Nguyễn Thị Thanh Bình hy vọng, thông qua những tham luận cũng như các ý kiến chuyên gia tại Hội thảo sẽ là những gợi ý hữu ích để đưa ra các giải pháp tài chính, tín dụng thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh và bền vững.

Kinh tế nông thôn ngày càng phát triển và chuyển đổi nhanh

 

TS. Nguyễn Anh Phong - Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình bày tham luận tại Hội thảo

Trình bày tham luận với chủ đề: “Định hướng chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam”, TS. Nguyễn Anh Phong - Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, trong giai đoạn 2010 - 2023, tăng trưởng GDP nông nghiệp ở nước ta tương đối ổn định, bình quân đạt 3,15%/năm. Năm 2023, quy mô GDP ngành nông nghiệp gấp 1,5 lần so với năm 2010 (theo giá cố định 2010). Việc bảo đảm tốt an ninh lương thực sẽ góp phần quan trọng trong cung cấp đầu vào cho ngành công nghiệp chế biến. Việc cơ cấu lại nền nông nghiệp ngày càng mang hiệu quả tích cực, đặc biệt là chuyển đổi giữa các ngành và tiểu ngành. Về xuất khẩu nông sản, TS. Nguyễn Anh Phong cho biết, hiện nay, Việt Nam xuất khẩu 11 nhóm ngành hàng chính gồm: Gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, rau quả, hạt điều, gạo, cà phê, cao su, sắn và các sản phẩm, hạt tiêu, chăn nuôi, chè. Phát triển thị trường được đẩy mạnh, kim ngạch xuất khẩu nông sản liên tục tăng: Năm 2010, giá trị xuất khẩu của Việt Nam ở ngưỡng 20 tỉ USD, đến năm 2023 tăng lên 53 tỉ USD.

Kinh tế nông thôn ngày càng phát triển và chuyển đổi nhanh, lao động có xu hướng chuyển dịch mạnh và tăng tỉ trọng các ngành phi nông nghiệp. Thu nhập của người dân nông thôn tăng và ngày càng đa dạng. Từ năm 2008 đến 2020, thu nhập người dân nông thôn tăng 5,5 lần, nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập của người dân đô thị. Cơ sở hạ tầng nông thôn không ngừng được cải thiện và dịch vụ ngày càng phát triển. Chương trình nông thôn mới đã đạt và vượt xa mục tiêu đề ra về cả hai phương diện tỉ lệ xã đạt chuẩn và số tiêu chí bình quân trên xã. Tính đến hết năm 2023, toàn quốc đã có 6.370/8.167 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới (đạt 78%), trong đó, có 1.612 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 256 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 270 huyện được công nhận đạt chuẩn huyện nông thôn mới (đạt 52%); 20 tỉnh và thành phố có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 5 tỉnh được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

TS. Nguyễn Anh Phong cũng chỉ ra một số hạn chế, tồn tại trong phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay: Tăng trưởng ngành nông nghiệp chưa vững chắc, dựa trên việc thâm dụng đầu vào và tài nguyên, hiệu quả sản xuất chưa cao, diện tích manh mún; thu nhập của người dân còn thấp, năng suất lao động nông nghiệp thấp, xuất khẩu tăng nhưng thị trường bấp bênh, giá trị chưa cao, chưa xâm nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Sản xuất nông nghiệp thâm dụng đầu vào trong sản xuất, phụ thuộc lớn vào thị trường nước ngoài; tổ chức sản xuất chậm thay đổi, doanh nghiệp quy mô nhỏ nhiều, chuỗi liên kết phát triển chậm; quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ, vốn ít, khó tiếp cận tín dụng. Khoa học công nghệ chưa có sự đột phá. Hệ thống nghiên cứu chưa đồng đều cho các ngành, nhiều ngành còn phụ thuộc vào nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Cơ giới hóa và hệ thống thủy lợi vẫn chủ yếu tập trung cho canh tác lúa, chưa phục vụ tốt đa mục tiêu; chuyển đổi số mới chỉ bắt đầu. Cơ sở hạ tầng nông thôn vùng sâu, vùng xa còn yếu, chưa đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư. Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp cao do dịch bệnh, thiên tai, bão lũ gây gián đoạn chuỗi cung ứng và tiêu thụ nông sản, chi phí sản xuất tăng…

Về định hướng trong thời gian tới, TS. Nguyễn Anh Phong cho biết, trong Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 ban hành theo Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra các quan điểm phát triển: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững về kinh tế - xã hội - môi trường; xây dựng nông thôn văn minh, có cơ sở hạ tầng và dịch vụ đồng bộ, hiện đại, đời sống cơ bản có chất lượng tiến gần đô thị; cơ sở hạ tầng đồng bộ, dịch vụ tốt; cư dân nông thôn là chủ thể, trung tâm và được hưởng lợi chính từ thành quả của các hoạt động phát triển nông thôn; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn…

Nông nghiệp, nông thôn là một trong các lĩnh vực ưu tiên vốn tín dụng ngân hàng
 

Bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN trình bày tham luận
 
Với tham luận: “Chính sách tín dụng, hoạt động ngân hàng đồng hành cùng khu vực nông nghiệp, nông thôn trong quá trình chuyển đổi và phát triển bền vững”, bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN cho biết, thực hiện chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành Ngân hàng luôn xác định nông nghiệp, nông thôn là một trong các lĩnh vực ưu tiên cần tập trung vốn tín dụng. Thời gian qua, NHNN đã thường xuyên rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các quy định về hoạt động cấp tín dụng, tổ chức và hoạt động của các loại hình TCTD (nhất là các TCTD quy mô nhỏ), thanh toán, sản phẩm dịch vụ ngân hàng,… theo hướng phù hợp với nguyên tắc thị trường, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, khu vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng, cũng như tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn. Điều hành chính sách tiền tệ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; điều hành lãi suất theo hướng giảm mặt bằng lãi suất giúp giảm chi phí vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và tại khu vực nông thôn giảm chi phí vốn vay, chỉ đạo các TCTD triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù trong lĩnh vực nông nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đơn giản hóa quy trình, thủ tục nội bộ, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn tín dụng; chú trọng mở rộng mạng lưới, điểm cung ứng dịch vụ của các TCTD, đặc biệt là hoạt động tài chính quy mô nhỏ ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin về chủ trương, chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tăng khả năng truyền tải vốn đến đối tượng thụ hưởng.

Đến nay, đã có trên 90 TCTD và gần 1.100 Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) tham gia cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn luôn chiếm ¼ tổng vốn tín dụng của toàn nền kinh tế. Vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp; tỉ trọng cho vay khách hàng là doanh nghiệp nông nghiệp tăng lên đáng kể, hiện chiếm khoảng 32% tổng dư nợ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; đối tượng khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, hộ kinh doanh với dư nợ chiếm khoảng 68,25%.  Tín dụng đối với nhóm ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có tỉ trọng tăng dần qua các năm, từ 31% năm 2016 lên gần 39% năm 2023, với tốc độ tăng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng dư nợ nông nghiệp, nông thôn bình quân, góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu và nâng cao vị thế trên thị trường thế giới; xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam nằm trong nhóm 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới và đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á.

Cùng với đó, nguồn vốn tín dụng ngân hàng chiếm tỉ trọng trên 60%/tổng nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2 (2016 - 2020); đến cuối năm 2023, vốn tín dụng thực hiện Chương trình đạt 1,9 triệu tỉ đồng.

Những khó khăn, vướng mắc đặt ra trong triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, đó là:  Khó khăn trong cung ứng vốn giá rẻ, dài hạn; khó khăn trong cho vay không có tài sản bảo đảm, cho vay HTX, cho vay trong nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, trong công tác thẩm định, xem xét cho vay, quản lý khoản vay, việc thu hồi và xử lý nợ vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Theo bà Hà Thu Giang, thời gian tới, để tiếp tục đồng hành với “Tam nông”, cần triển khai đồng bộ các giải pháp của các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương để hỗ trợ triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn: (i) Xem xét ban hành, cập nhật định mức kinh tế kỹ thuật đối với cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; (ii)  Quy hoạch phát triển các sản phẩm nông nghiệp phù hợp với quy hoạch địa phương; chú trọng tái cơ cấu, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững; (iii) Hoàn thiện đồng bộ các văn bản hướng dẫn Luật Đất đai 2024; có hướng dẫn đánh giá tài sản hình thành trên đất; tổ chức rà soát, đối chiếu tổng thể tính pháp lý của toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp; đẩy nhanh tiến độ cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia hạn thời hạn sử dụng đất; (iv) Nghiên cứu thiết kế các mô hình/phương án sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, quy hoạch đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, đảm bảo tính hiệu quả về tài chính và khả năng tài trợ của phương án…; (v) Chỉ đạo các sở, ngành, chính quyền địa phương các cấp, các đơn vị chức năng tăng cường trao đổi, phối hợp trong triển khai chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách để người dân, doanh nghiệp hiểu rõ hơn và chủ động hơn trong tiếp cận chính sách…

Xác định “Tam nông” là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu

 

Ông Hoàng Minh Ngọc - Phó Tổng Giám đốc Agribank trình bày tham luận

Tham luận với chủ đề: “Giải pháp tài chính, tín dụng của Agribank thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh và bền vững”, ông Hoàng Minh Ngọc - Phó Tổng Giám đốc Agribank cho biết, đến ngày 31/8/2024, tổng dư nợ cho vay của Agribank đạt trên 1,6 triệu tỉ đồng, trong đó, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn là hơn 1 triệu tỉ đồng với 2,8 triệu khách hàng, tăng gấp hơn 2 lần so với thời điểm năm 2015 - khi bắt đầu triển khai Nghị định số 55/2015/NĐ-CP. Với kết quả như vậy, Agribank là ngân hàng có thị phần cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn lớn nhất hệ thống ngân hàng.

Để thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh, bền vững, ông Hoàng Minh Ngọc - nêu một số giải pháp sau: (i) Tiếp tục chỉ đạo các Chi nhánh trong hệ thống kết hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội và các cấp chính quyền đẩy mạnh tuyên truyền chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn, nắm bắt nhu cầu vay vốn của khách hàng, tạo điều kiện để khách hàng tiếp cận vốn vay nhanh chóng, thuận lợi; (ii) Công khai, minh bạch chính sách, hồ sơ, điều kiện cho vay trên cơ sở cải cách, đơn giản thủ tục hành chính tạo điều kiện tối đa cho khách hàng trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng; (iii) Xác định đối tượng khách hàng, lĩnh vực đầu tư để tập trung ưu tiên cạnh tranh; ưu tiên vốn phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; phát triển khách hàng tại địa bàn thị trấn, thị tứ; (iv) Đẩy mạnh công tác huy động vốn bảo đảm nguồn lực tài chính để cung ứng vốn cho vay nông nghiệp, nông thôn; triển khai cho vay theo mô hình liên kết, cho vay theo chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ, cung cấp dịch vụ thanh toán trong nông nghiệp, đặc biệt là với hàng hóa nông sản có giá trị xuất khẩu cao; duy trì tỉ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm từ 65% - 70% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; (v) Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên các cấp… tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp củng cố việc tổ chức cho vay qua tổ vay vốn; (vi) Nâng cấp hệ thống công nghệ để phát triển các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ của Agribank trên nền tảng số; (vii) Tiếp tục mở rộng triển khai mô hình “Điểm giao dịch lưu động bằng xe ô tô chuyên dùng” đến tất cả các xã cách xa trung tâm, vùng sâu, vùng xa...

Ông Hoàng Minh Ngọc nêu một số kiến nghị đến Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương: Cần xem xét xây dựng các chương trình tín dụng chính sách theo hướng tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại, tránh tư tưởng ỷ lại vào vốn ngân sách Nhà nước, tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng hưởng lợi; Ưu tiên nhận vốn nhàn rỗi từ các quỹ của Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, quỹ hỗ trợ sắp xếp đối với doanh nghiệp với lãi suất thấp để cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn; Tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, tạo thị trường đầu ra ổn định cho sản phẩm của khu vực nông nghiệp, nông thôn; Có chính sách thu mua, dự trữ, bình ổn giá các sản phẩm nông nghiệp để người dân tránh rủi ro do giá hạ; Có cơ chế xử lý nợ đối với khoản vay không có tài sản bảo đảm theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, đẩy nhanh việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp, đồng thời mở rộng đối tượng và địa bàn triển khai nhiều loại hình bảo hiểm nông nghiệp thích hợp để bảo đảm nợ vay khi rủi ro xảy ra; Các địa phương có giải pháp hỗ trợ việc thành lập và phát triển mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị trong các khâu của quá trình sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ sản phẩm giữa nông dân với doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác; hỗ trợ phát triển các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp sạch theo hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững; Đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ghi nhận tài sản trên đất.

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện 9/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới


Ông Nguyễn Đức Hải - Phó Tổng Giám đốc NHCSXH trình bày tham luận
 
Ông Nguyễn Đức Hải - Phó Tổng Giám đốc NHCSXH tham luận tại Hội thảo với chủ đề: “Tín dụng chính sách xã hội góp phần xây dựng nông thôn mới”, cho biết, tính đến cuối tháng 9/2024, tổng dư nợ của NHCSXH đạt trên 357.000 tỉ đồng, với trên 6,8 triệu hộ còn dư nợ. Trong đó, 88,3% được đầu tư tại khu vực nông thôn với dư nợ đạt trên 315.000 tỉ đồng; dư nợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo sinh kế, việc làm chiếm 73,1% tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy, hải sản chiếm 87,45%. Với đối tượng phục vụ là hộ nghèo và các đối tượng chính sách chủ yếu ở khu vực nông thôn, cùng với các nguồn lực trong xã hội, tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện 9/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Với việc triển khai sâu rộng đến 100% xã, phường, thị trấn trong cả nước, tín dụng chính sách xã hội đã góp phần thực hiện hiệu quả các mục tiêu Chương trình xây dựng nông thôn mới, thể hiện qua các nội dung sau: (i) Phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững cho người dân khu vực nông thôn; (ii) Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường cho người dân khu vực nông thôn thông qua các chính sách tín dụng hỗ trợ học tập đối với học sinh, sinh viên, cho vay xây dựng, sửa chữa nhà ở, xây dựng công trình cung cấp nước sạch, công trình vệ sinh quy mô hộ gia đình; (iii) Thúc đẩy tiếp cận tài chính, thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia; (iv) Củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; góp phần ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; (v) Tạo cơ hội bình đẳng trong phát triển kinh tế và thụ hưởng các chính sách xã hội của người nghèo, đối tượng chính sách.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, ông Nguyễn Đức Hải cũng chỉ ra một số khó khăn, thách thức trong việc thực thi chính sách tín dụng trong xây dựng nông thôn mới, đồng thời nêu một số nhiệm vụ trọng tâm của NHCSXH trong thời gian tới như sau: (i) Tiếp tục bám sát các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp trong các Nghị quyết của Quốc hội, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ để tổ chức triển khai hiệu quả tín dụng chính sách xã hội gắn với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; (ii) Duy trì và thực hiện hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới; (iii) Tập trung huy động, đa dạng hóa nguồn vốn từ Trung ương, tăng cường nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương, đáp ứng kịp thời và hiệu quả nhu cầu vốn ngày càng lớn của các đối tượng thụ hưởng; (iv) Phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức chính trị - xã hội các cấp thực hiện kịp thời, hiệu quả các chương trình tín dụng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, động viên, khích lệ người nghèo và các đối tượng chính sách phát huy tinh thần tự lực, tự cường, ý chí thoát nghèo, mạnh dạn vay vốn; (v) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo sinh kế bền vững cho người dân thông qua việc lồng ghép có hiệu quả các hoạt động khuyến nông - lâm -  ngư, hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao khoa học công nghệ; tăng cường phối hợp giữa chính sách tín dụng với giáo dục tài chính để hỗ trợ người nghèo nâng cao kiến thức về sản xuất, kinh doanh, hoạch định tài chính…; (vi) Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng tín dụng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng…

Nợ quá hạn trong cho vay của hệ thống Quỹ Hỗ trợ nông dân (HTND) luôn ở mức thấp

 

Ông Vũ Duy Hưng - Phó Trưởng Ban Điều hành Quỹ HTND, Hội Nông dân Việt Nam trình bày tham luận
 
Với chủ đề tham luận: “Hội Nông dân Việt Nam trong tham gia cung ứng, chuyển tải vốn tín dụng góp phần thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh và bền vững”, ông Vũ Duy Hưng - Phó Trưởng Ban Điều hành Quỹ HTND, Hội Nông dân Việt Nam cho biết, trong những năm qua, Hội Nông dân Việt Nam thông qua hoạt động của hệ thống Quỹ HTND và chương trình phối hợp với ngành Ngân hàng đã và đang tích cực tham gia rất hiệu quả vào quá trình cung ứng, chuyển tải vốn tín dụng đến hội viên, nông dân sống ở khu vực nông thôn một cách nhanh chóng, hiệu quả, cụ thể:

Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp hỗ trợ vốn cho hội viên, nông dân phát triển kinh tế thông qua hoạt động của Quỹ HTND. Đến ngày 30/6/2024, Trung ương và địa phương đã bố trí vốn từ ngân sách cho Quỹ HTND các cấp 4.142 tỉ đồng; tổng số tiền huy động từ nguồn ngoài ngân sách đạt gần 782 tỉ đồng; dư nợ cho vay toàn hệ thống Quỹ HTND đạt trên 4.612 tỉ đồng với 18.370 dự án cho hơn 145.769 hộ tham gia vay vốn; nợ quá hạn chỉ chiếm 0,37% so với tổng dư nợ cho vay. Đặc biệt, ngày 24/6/2023 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 37/2023/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ HTND. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Quỹ HTND phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho hội viên, nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.

Hội Nông dân Việt Nam phối hợp với ngành Ngân hàng tham gia hoạt động hỗ trợ vốn cho hội viên, nông dân phát triển kinh tế nông nghiệp. Tính đến ngày 30/6/2024 đạt trên 185.000 tỉ đồng với hơn 2,6 triệu lượt hội viên, nông dân tham gia vay vốn, mở rộng mô hình hoạt động, phát triển sản xuất, kinh doanh; góp phần tháo gỡ khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế hộ trong nông nghiệp, nông thôn.

 Ông Vũ Duy Hưng đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục thúc đẩy tài chính, tín dụng trong lĩnh vực “Tam nông” thời gian tới như sau: (i) Chính phủ tiếp tục quan tâm ban hành các chủ trương, chính sách tín dụng trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm tạo điều kiện cho người dân tiếp cận nguồn vốn lớn hơn, thời gian vay dài hơn với lãi suất ưu đãi; có cơ chế khuyến khích hơn nữa để ngành Ngân hàng tập trung vào việc cung cấp tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; (ii) Tạo cơ chế thuận lợi để Hội Nông dân các cấp tổ chức thực hiện các hình thức vận động nguồn lực xã hội cho Quỹ HTND để xây dựng nhân rộng mô hình điểm trong phát triển nông nghiệp; (iii) Ngành Ngân hàng cần mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ, đặc biệt ứng dụng công nghệ thông tin cho hoạt động; các thủ tục tiếp cận vốn nên rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình độ của mọi đối tượng vay; tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ủy thác tín dụng nông nghiệp, nông thôn nhằm đưa các hoạt động dịch vụ, tài chính đến các thôn, ấp, bản, làng... ở vùng sâu, vùng xa khó khăn, nơi các TCTD chưa thể tiếp cận được người dân.

Cần phối hợp hài hòa giữa các bộ, ngành, địa phương để chính sách phát triển “Tam nông” phát huy hiệu quả hơn nữa

 

PGS., TS. Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường phát biểu tại Hội thảo

Trong phiên thảo luận, trao đổi về hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả sử dụng đất, khuyến khích tích tụ tập trung ruộng đất, PGS., TS. Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh một số vấn đề quan trọng liên quan đến các chủ trương phát triển nông nghiệp. Theo PGS., TS. Nguyễn Đình Thọ, chúng ta đã có những bước triển khai từ rất lâu, với các quy định rõ ràng từ năm 2013, tạo nền tảng cho việc thực hiện các nội dung liên quan đến quản lý đất đai. Thời gian qua, nhiều tỉnh thành, đặc biệt là Đà Nẵng, đã có những thành công nhất định trong việc thực hiện các chính sách này. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức cần phải giải quyết, như việc trả lại đất cho người dân khi dự án không thành công. Đây là vấn đề lớn, đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng trong việc phân bổ và sử dụng đất.

Một trong những thách thức lớn khác là việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình khi đất đai có nhiều chủ sở hữu. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần xây dựng hạ tầng phục vụ như kho bãi, khu vực sinh hoạt chung, và đảm bảo quyền lợi cho người dân. Việc áp dụng công nghệ số trong quản lý đất đai cũng đang được triển khai, giúp quá trình cấp giấy chứng nhận trở nên nhanh chóng và thuận tiện hơn.

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, tài chính xanh và tài chính khí hậu đang trở thành yếu tố quan trọng trong phát triển bền vững. Những chính sách liên quan đến tín chỉ carbon cũng sẽ đóng góp tích cực vào việc hỗ trợ người dân trong mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Theo PGS., TS. Nguyễn Đình Thọ, chúng ta cần khai thác tốt các nguồn lực này để phát triển bền vững trong tương lai. Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, nhất là trong bối cảnh 63 tỉnh, thành phải phối hợp chặt chẽ. Việc quy hoạch lại các khu vực phát triển và bảo tồn là cần thiết để tạo ra một hệ sinh thái bền vững.

Chia sẻ về những kết quả trong việc thực hiện các chính sách phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn thời gian qua, bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN cho biết, trong quá trình triển khai Nghị định số 55/2015/NĐ-CP và Nghị định số 116/2018/NĐ-CP có ba kết quả nổi bật sau 9 năm thực hiện.

Đầu tiên, sự quan tâm và đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã gia tăng đáng kể. Trước đây, chỉ có Agribank là ngân hàng chủ lực cung cấp vốn cho lĩnh vực này, nhưng hiện tại có trên 90 TCTD và hơn 1.000 QTDND tham gia cho vay. Thứ hai, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân cho nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2016 - 2023 đạt khoảng 16,3%, cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, với quy mô tín dụng luôn duy trì khoảng 25% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế, đạt 3,3 triệu tỉ đồng vào cuối tháng 9/2024. Thứ ba, nguồn vốn cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã đáp ứng nhu cầu sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu. Sự gia tăng tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình đã thúc đẩy thương mại, dịch vụ và cải thiện đời sống người dân. Đồng thời, vốn tín dụng góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao giá trị các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của Việt Nam như lúa gạo, thủy sản và rau củ đã tăng trưởng mạnh, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.

Về một số định hướng cũng như chính sách khuyến khích phát triển 
sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới, ông Nguyễn Văn Thuận - Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết, trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy sản, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong những năm gần đây. Hiện tại, sản phẩm của Việt Nam đã được chấp nhận tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, điều này cho thấy sự khởi sắc trong khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản Việt Nam, đặc biệt trong vòng 10 năm qua.
 

Ông Nguyễn Văn Thuận - Trưởng Phòng, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát biểu tại Hội thảo

Một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công này là sự đồng hành, hỗ trợ từ các giải pháp tài chính, như các chương trình tín dụng và nguồn vốn từ ngân hàng, giúp đỡ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay, nhu cầu về sản phẩm nông sản và thủy sản đang trở nên đa dạng hơn. Trước đây, chỉ cần sản phẩm đạt tiêu chuẩn là có thể bán được, nhưng giờ đây, người tiêu dùng ngày càng hướng đến các sản phẩm an toàn và chất lượng cao. Để đáp ứng yêu cầu này, việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất là vô cùng cần thiết, do đó, không thể tiếp tục sản xuất theo phương thức truyền thống mà cần chuyển đổi số và áp dụng các công nghệ thông minh để cải thiện chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm.

Thời gian qua, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, như Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, điều quan trọng là làm thế nào để tổ chức thực hiện những chính sách này một cách hiệu quả. Các chuỗi sản xuất, doanh nghiệp và người dân có thực sự tiếp cận được các chính sách này không? Đây là câu hỏi cần được bàn thảo kỹ lưỡng, đặc biệt khi chỉ còn vài năm nữa để đạt được các mục tiêu phát triển.

Theo thống kê, trong 5 năm qua, Việt Nam đã có trên 2.500 chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản và thủy sản, đáp ứng nhu cầu của nhiều thị trường. Để duy trì và phát triển các chuỗi này, chúng ta cần bảo đảm sản xuất theo hướng công nghệ cao và bền vững, đồng thời đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Người tiêu dùng không chỉ mong đợi sản phẩm đạt tiêu chuẩn Việt Nam, mà còn phải tương xứng với tiêu chuẩn toàn cầu.

Thực hiện chính sách nhất quán trong chỉ đạo, điều hành

Về kết quả triển khai các chính sách của Agribank, ông Hoàng Minh Ngọc - Phó Tổng Giám đốc Agribank cho biết, Agribank đã thực hiện chính sách nhất quán trong chỉ đạo, điều hành, không ngừng đổi mới, cải tiến quy trình, sản phẩm để phù hợp với đối tượng nông nghiệp, nông thôn. Về khó khăn, thách thức trong tài trợ/cấp tín dụng đối với lĩnh vực này, ông Hoàng Minh Ngọc cho biết, công tác tuyên truyền chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tại một số địa phương chưa được thường xuyên và sâu rộng, công tác phối hợp của một số chi nhánh với lãnh đạo Đoàn thể, tổ chức tại một số nơi còn hạn chế; cho vay nông nghiệp, nông thôn tiềm ẩn rủi ro (thiên tai, dịch bệnh, được mùa rớt giá…), số lượng khách hàng lớn nhưng dư nợ mỗi khách hàng thường không cao, trong khi số lượng cán bộ tín dụng tại các chi nhánh lại mỏng…; một số bộ phận người dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn ngân hàng do ở vùng sâu, vùng xa, khoảng cách từ nơi sinh sống đến các phòng giao dịch rất xa; việc áp dụng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với các khách hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn thấp so với sự phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn hiện nay. Tiến độ cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diễn ra chậm, gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng…

Nên gắn các chính sách tín dụng với chính sách bảo hiểm nông nghiệp

 

GS., TS. Phạm Bảo Dương - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang trao đổi ý kiến tại Hội thảo

Chia sẻ về thực trạng cũng như tiềm năng phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp lúa gạo khu vực miền núi phía Bắc hiện nay, GS., TS. Phạm Bảo Dương - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang cho biết: Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị liên kết đang được đánh giá là hướng đi bền vững, hài hòa lợi ích và gia tăng giá trị cho các tác nhân tham gia trong chuỗi, giúp nâng cao hiệu quả, tăng thu nhập cho người nông dân. Chuỗi giá trị hiện nay đã mang tính toàn cầu, giải phóng sức sản xuất, giúp nâng cao thu nhập cho người nông dân từ chính mảnh ruộng của họ, đó là nhờ sự đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước ta, từ đó người nông dân đã rất thành công trong phát triển sản xuất nông nghiệp.

Việt Nam đã rất thành công trở thành điểm sáng trên thế giới về phát triển sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản có giá trị; hình thành rất nhiều chuỗi giá trị nông sản mang tính toàn cầu như chuỗi lúa gạo, cà phê, tôm, cá tra, gỗ… Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn một số tồn tại, đó là: (i) Tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, tiềm lực tài chính của các tác nhân trong chuỗi, kể cả tác nhân hộ, HTX hay doanh nghiệp - đứng đầu chuỗi, còn rất yếu; năng lực quản trị, điều hành chuỗi của các tác nhân còn yếu; (ii) Sự phối hợp liên kết giữa các thành phần trong chuỗi còn rất lỏng lẻo, kể cả liên kết ngang và liên kết dọc. Tuy nhiên phải khẳng định, phát triển theo chuỗi giá trị là hướng đi đúng đắn và bền vững.

Về giải pháp, GS., TS. Phạm Bảo Dương cho rằng, sự thành công của chính sách tín dụng đối với phát triển khu vực “Tam nông” phụ thuộc rất lớn vào bảo hiểm nông nghiệp, vì vậy, cùng với tiếp tục đẩy mạnh các chính sách ưu đãi của Chính phủ, NHNN, các bộ, ngành đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, cần phát triển mạnh mẽ thị trường bảo hiểm nông nghiệp, đặc biệt là đối với chuỗi giá trị; nên gắn chặt chính sách tín dụng với chính sách bảo hiểm nông nghiệp, các TCTD có thể đưa ra nhiều chính sách ưu đãi đối với khách hàng vay, đặc biệt là các tác nhân tham gia chuỗi giá trị liên kết đã tham gia bảo hiểm nông nghiệp.

Cũng tại Hội thảo, bà Nguyễn Thị Hải Bình - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần STP Aqua Quảng Ninh đã nêu một số kiến nghị liên quan đến các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là sau khi chịu ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 vừa qua, cụ thể là các vấn đề đăng ký quyền tài sản trên đất; hạn mức tín dụng, các chính sách hỗ trợ của ngành Ngân hàng đối với ngành nuôi biển, một số đề xuất trong sửa đổi Nghị định số 55/2015/NĐ-CP sắp tới… Các ý kiến vướng mắc của bà Nguyễn Thị Hải Bình đã được Hội thảo ghi nhận và giải đáp đầy đủ.

Phát biểu tổng kết Hội thảo, Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Ngân hàng Nguyễn Thị Thanh Bình cho biết, Hội thảo đã tạo ra một diễn đàn trao đổi có tính tương tác cao giữa các chuyên gia đến từ các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị chức năng thuộc NHNN và các bộ, ngành, NHTM, NHCSXH, các doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế, nhà khoa học… cùng thảo luận, đánh giá các cơ hội, khó khăn, từ đó đưa ra các giải pháp tài chính, tín dụng thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới. Các ý kiến trao đổi của diễn giả tại phiên thảo luận đã kịp thời bổ sung, làm rõ thêm nhiều thông tin theo chủ đề của Hội thảo; đồng thời, gợi mở một số vấn đề mới về các giải pháp phát triển lĩnh vực “Tam nông” cần tiếp tục quan tâm, nghiên cứu như: Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khắc phục những hạn chế về tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn; chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp sinh thái; vấn đề sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị liên kết, chính sách bảo hiểm nông nghiệp…

Mạnh Hiền - Ảnh: Đức Thuận
Theo: Tạp chí Ngân hàng
    Bài cùng chuyên mục