Bài 2: Hiệu quả điện khí - Góc nhìn từ thực tiễn

(Banker.vn) Trong những năm gần đây, đặc biệt từ sau Hội nghị Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu năm 2015 (COP 21), nhu cầu sử dụng LNG trên thế giới tăng đáng kể.
Bài 1: Nhận diện vai trò “trụ đỡ” của điện khí

Điện khí LNG góp phần đảm bảo an ninh năng lượng để phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam Phát triển điện khí LNG, xu hướng tất yếu cho an ninh năng lượng ở Việt Nam

Cuộc khủng hoảng thiếu điện cục bộ chủ yếu ở miền Bắc trong các tháng 4 đến tháng 7/2023 với thời tiết nắng nóng, khô hạn cực đoan mới đây đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến người tiêu dùng điện, môi trường đầu tư, kinh tế Việt Nam, trong thời điểm khó khăn đó, các nhà máy điện khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) đã được huy động, bù đắp một phần không nhỏ lượng điện thiếu hụt.

Điện khí nguồn điện linh hoạt, hiệu quả

Trong những năm gần đây, đặc biệt từ sau Hội nghị Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu năm 2015 (COP 21), nhu cầu sử dụng LNG trên thế giới tăng đáng kể. Theo thống kê, nhu cầu LNG trên thế giới tăng 6,3%/năm, công suất LNG trên thế giới tăng từ 340 triệu tấn/năm (năm 2017) lên 453 triệu tấn/năm vào năm 2022. Khí thiên nhiên lỏng LNG đã trở thành lựa chọn hàng đầu để giải quyết bài toán năng lượng và môi trường. Nguyên nhân nhờ vào đặc tính sạch, hiệu suất cao, tiết kiệm tài nguyên, độ linh hoạt và khả năng đáp ứng nhu cầu tăng cao...

Bài 2: Hiệu quả điện khí - Góc nhìn từ thực tiễn
Nhà máy điện khí Nhơn Trạch 2

Khác với năng lượng tái tạo, điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) có ưu điểm linh hoạt, có thể thay đổi khi cần, lượng phát thải carbon thấp hơn một nửa (50%) so với nhiệt điện than. Một trong những lợi ích quan trọng nhất của khí LNG là thân thiện môi trường. Nếu so với các nhiên liệu truyền thống như than và dầu mỏ, khí LNG gây ra ít ô nhiễm môi trường hơn.

Theo TS. Mai Duy Thiện - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam, việc sử dụng khí LNG không chỉ giảm thiểu khí thải CO2 mà còn giảm thiểu các chất gây ô nhiễm như SOX (oxit lưu huỳnh) và NOX (oxit nitơ). Đồng nghĩa với việc giảm tác động tiêu cực lên chất lượng không khí và môi trường sống. Bên cạnh đó, điện khí hóa lỏng có khả năng đạt hơn 90% hệ số công suất khi cần thiết, thời gian xây dựng và đưa vào vận hành nhanh đáp ứng được tình trạng thiếu điện nếu có, không gặp phải tình trạng gián đoạn và phụ thuộc vào thiên nhiên như năng lượng tái tạo, điện gió, điện mặt trời.

Dẫn chứng từ việc thiếu điện cục bộ ở miền Bắc do thời tiết nắng nóng, khô hạn trong các tháng 4 đến tháng 7/2023 mới đây đã cho thấy các nhà máy điện khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã có sự linh hoạt, đáp ứng nhu cầu huy động điện cần thiết. Kể từ cuối tháng 4, các nhà máy điện khí do Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power) - đơn vị trực tiếp quản lý, vận hành 4 nhà máy điện khí Nhơn Trạch 1&2; Cà Mau 1&2 đã rất nỗ lực thu xếp nguồn nhiên liệu dầu để đảm bảo luôn vận hành khả dụng các nhà máy khi EVN, AO huy động. Có thời điểm, sản lượng điện vận hành dầu tại các nhà máy điện khí của PV Power đạt hơn 240 triệu kWh, lượng dầu tiêu thụ hơn 43.414 tấn dầu DO. Điều đó cho thấy, khi tình hình thời tiết, thủy văn cực đoan xảy ra vừa qua mới thấy rõ điện khí đã phát huy được vai trò "bệ đỡ" đối với các nguồn điện khác.

Tầm quan trọng của điện khí trong chiến lược phát triển

Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2045 (Quy hoạch điện VIII) đã xác định đến 2030, nguồn nhiệt điện khí (nhiệt điện LNG chiếm 14,9%) chiếm tỷ trọng khoảng trên 24% tổng công suất toàn hệ thống phát điện và là một trong các nguồn giúp đảm bảo cung cấp đủ, ổn định và an toàn hệ thống điện quốc gia.

Cụ thể đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy sử dụng khí trong nước đạt 14.930 MW (chiếm 9,9%), sản xuất 73 tỷ kWh, đối với nguồn điện LNG tối đa đạt 22.400 MW (14,9), sản xuất 83,5 tỷ kWh. Định hướng đến 2050, nhiệt điện khí trong nước chuyển sử dụng sang LNG 7.900 MW (1,4-1,6%) và dự kiến chuyển chạy hoàn toàn bằng hydro 7.030 MW (1,2-1,4%), điện năng sản xuất 31,6-31,9 tỷ kWh. Đối với các nhà máy sử dụng LNG chuyển dần sang sử dụng hydro, tổng công suất 25.400 MW, sản xuất 129,6-136,7 tỷ kWh.

Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26) hồi tháng 11/2021 với việc đặt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trong đó, LNG được coi là một giải pháp giảm phát thải khí nhà kính đầy tiềm năng, đồng thời giúp huy động và thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước. Mặt khác, để bảo đảm trung hòa carbon vào năm 2050, tất cả các phương án đề xuất tính toán đều phải thực hiện chuyển đổi năng lượng và tuân thủ các nguyên tắc chung. Nguồn điện LNG chỉ phát triển các nguồn điện LNG trước năm 2035, sẽ chuyển dần sang sử dụng hydrogen (tăng dần tỷ trọng đốt kèm) và chuyển hẳn sang sử dụng hydrogen khi công nghệ thương mại hóa và giá thành phù hợp. Nguồn điện sử dụng khí trong nước sẽ ưu tiên khai thác, sử dụng hết lượng khí trong nước để cung cấp cho sản xuất điện nhằm tăng tính tự chủ trong sản xuất điện, khi cần thiết đốt kèm nhiên liệu hydrogen.

Một dẫn chứng nữa, Nghị quyết 55/NQ-BCT về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 yêu cầu phải chú trọng phát triển nhanh chóng nhiệt điện khí LNG, đồng thời phải ưu tiên phát triển hạ tầng nhập khẩu và phân phối LNG. Theo hướng này, gia tăng tỷ lệ nhiệt điện khí LNG trong cơ cấu nguồn điện quốc gia đã được triển khai. Điện khí LNG được kỳ vọng sẽ dẫn đầu trong cơ cấu năng lượng của Việt Nam, đáp ứng một phần lớn công suất theo nhu cầu dự kiến vào năm 2030.

Với lĩnh vực công nghiệp điện, song song việc tập trung vận hành ổn định, an toàn và hiệu quả các nhà máy điện, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, trên cơ sở phát triển đa dạng các loại hình phát điện: nhiệt điện khí, nhiệt điện than, thủy điện và năng lượng tái tạo. Hiện Petrovietnam đang giữ vững vị thế số một trong lĩnh vực điện khí và là một trong những nhà cung cấp điện năng lớn trong toàn hệ thống, đứng thứ 2 sau EVN.

Cần những cơ chế đồng bộ để Petrovietnam phát triển điện khí

Chủ trương của Petrovietnam kể từ khi thành lập đơn vị thành viên Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power) vào năm 2007 đến nay đã tập trung vào lĩnh vực điện khí, tận dụng nguồn khí được khai thác và đưa vào bờ, ưu tiên sử dụng cho phát điện chủ động tích cực đầu tư phát triển nhiệt điện khí trên cơ sở chiến lược sử dụng nguồn khí thiên nhiên, từng bước nâng cao tỷ lệ nhiệt điện khí nhằm phát huy thế mạnh của Tập đoàn. Cho đến nay, cả 4 nhà máy điện khí, gồm: Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2 và Cà Mau 1&2 với tổng công suất 2.700 MW do PV Power quản lý, vận hành đều mang lại hiệu quả cao, là điểm sáng phát triển kinh tế tại khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Hiện nay, PV Power đang triển khai đầu tư, bám sát tiến độ các dự án điện khí lớn như Nhơn Trạch 3&4 và gần đây nhất là dự án Nhà máy Điện khí LNG Quảng Ninh… Điều này càng khẳng định hướng đi đúng đắn của Petrovietnam, từng bước khẳng định vai trò, vị trí tầm quan trọng của điện khí ở nhiều giai đoạn.

Để đáp ứng mục tiêu, chiến lược năng lượng quốc gia những năm tới, hiện nay Petrovietnam đang tập trung các nguồn lực vào các dự án trọng điểm trong lĩnh vực công nghiệp khí như: Dự án kho cảng nhập LNG Thị Vải (giai đoạn 2 nâng công suất lên 3 triệu tấn/năm); dự án kho cảng nhập LNG Sơn Mỹ (công suất 3,6 triệu tấn/năm); dự án khí Lô B (công suất 6,4 tỷ m3/năm); chuỗi dự án khí Cá Voi Xanh (công suất 7-9 tỷ m3/năm). Đặc biệt, với chuỗi dự án Khí - Điện Lô B, Cá Voi Xanh, có thể nói đây là các dự án phức tạp về công nghệ phải thực hiện đồng bộ từ khâu thượng nguồn (khai thác khí), trung nguồn (đường ống dẫn khí) và hạ nguồn dầu khí (các nhà máy điện). Thách thức hơn, các dự án này còn bị điều chỉnh bởi nhiều quy định pháp luật dẫn tới quá trình chuẩn bị đầu tư dự án mất nhiều thời gian, qua nhiều công đoạn thẩm định.

Song song với đó, Petrovietnam gấp rút triển khai việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng trên nguyên tắc sử dụng tối đa công suất hệ thống hiện hữu (đường ống, trạm thu gom, xử lý…); nghiên cứu triển khai đầu tư xây dựng các hạ tầng công nghiệp khí mới; liên kết các hệ thống hạ tầng khí nhằm tăng sự chủ động trong việc điều tiết tiêu thụ khí. Đồng thời, chú trọng chế biến và chế biến sâu, dành 5-8% tổng sản lượng khí vào bờ cho chế biến, đa dạng hóa sản phẩm, gia tăng giá trị khí.

Bài 2: Hiệu quả điện khí - Góc nhìn từ thực tiễn
Trước khi tham gia đầu tư vào dự án Nhà máy Điện khí LNG Quảng Ninh, PV Power đã và đang quyết liệt triển khai đầu tư dự án Nhà máy Điện Nhơn Trạch 3&4, cũng là dự án điện sử dụng nhiên liệu LNG đầu tiên của Việt Nam

Trong phần trữ lượng đã phát hiện chưa khai thác, trữ lượng từ các dự án khí lớn như Lô B, Cá Voi Xanh chiếm tới 30%, bằng với trữ lượng còn lại của các mỏ đang khai thác. Đây là các dự án khí lớn, việc phát triển các dự án này đem lại hiệu quả và lợi ích tổng thể rất lớn cho nhà nước. Tuy nhiên, việc phát triển chuỗi các dự án khí điện như Dự án Khí Lô B và Cá Voi Xanh còn cần những cơ chế đồng bộ cho thị trường khí và thị trường điện, hiện chúng ta vẫn chưa có các cơ chế này. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến chậm trễ triển khai các dự án. Việc chậm trễ này đã và sẽ ảnh hưởng lớn tới việc bù đắp sản lượng trong thời gian tới, và nếu kéo dài sẽ rất khó có thể triển khai trong tương lai. Điều này sẽ gây lãng phí lớn nguồn tài nguyên đất nước, bởi xu hướng chuyển dịch năng lượng sẽ ngày càng làm giảm đi tính cạnh tranh của nguồn nhiên liệu hóa thạch.

Do đó, trong giai đoạn tới, Petrovietnam tiếp tục nỗ lực ưu tiên tối đa các nguồn lực để triển khai các dự án khí Lô B và Cá Voi Xanh. Petrovietnam cũng đã xác định rõ việc phát triển các nguồn khí lớn sẽ phục vụ chiến lược phát triển bền vững của Petrovietnam cũng như góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Giai đoạn 2025-2030, Petrovietnam phấn đấu đưa các dự án khí lớn vào khai thác bao gồm Dự án Lô B (quý IV/2026), Sư Tử Trắng - Pha 2 B (tháng 9/2026) và Cá Voi Xanh (năm 2028). Ngoài ra, Petrovietnam cũng sẽ phấn đấu lập kế hoạch phát triển, đưa vào khai thác các mỏ nhỏ, cận biên như các mỏ khí Hoa Mai, Báo Vàng, cụm mỏ Khánh Mỹ - Đầm Dơi - Phú Tân... Tuy nhiên, việc có thể đưa các mỏ nêu trên vào khai thác phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế, chính sách phù hợp để các nhà đầu tư có thể triển khai, bảo đảm lợi nhuận.

Để giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các dự án trọng điểm nhà nước về dầu khí như Lô B, Cá Voi Xanh..., Petrovietnam đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ, các bộ/ngành tại nhiều văn bản để xem xét ban hành các cơ chế nhằm thực hiện Quy hoạch điện VIII trong đó có lĩnh vực phát triển nguồn điện khí nói riêng.

Nền kinh tế đang đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng sạch từ than sang khí và coi điện khí là mũi nhọn trong thời gian tới. Nhiệt điện than có nguy cơ gây ô nhiễm, thủy điện có giới hạn theo mùa, do đó để giải bài toán thiếu điện và để bảo vệ môi trường, thúc đẩy hiện thực hóa các cam kết của Việt Nam tại COP 26 và thực hiện theo Quy hoạch điện VIII thì phát triển điện khí là việc rất quan trọng và là hướng đi đúng đắn của ngành năng lượng Việt Nam.

Minh Châu

Bài 3: Bức tranh ngành Điện Việt Nam năm 2030 nhìn từ Quy hoạch Điện VIII

petrotimes.vn

Theo: Báo Công Thương