Rủi ro chính sách sẽ bào mòn sức khoẻ, ảnh hưởng tới niềm tin của doanh nghiệp

(Banker.vn) ​TS. Nguyễn Minh Thảo – Trưởng Ban nghiên cứu Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương - CIEM) - đã mượn từ “cơn gió ngược” để nói lên những khó khăn mà các doanh nghiệp (DN) đang phải đương đầu. Theo chuyên gia này, trong bối cảnh đó, cộng đồng DN chờ đợi một môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định, những rủi ro chính sách sẽ dẫn tới bào mòn sức khoẻ, ảnh hưởng tới niềm tin của DN, nhà đầu tư. TS. Nguyễn Minh Thảo đã trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.

Doanh nghiệp còn khó khăn hơn thời kỳ COVID-19

Phóng viên: Bà có thể chia sẻ về tình hình kinh tế - xã hội nước ta và tình hình DN trong 6 tháng đầu năm 2023 diễn ra thế nào? Trước tình hình đó, chủ trương chính sách vĩ mô của nhà nước là gì ?

ts.-nguyen-minh-thao.jpg
TS. Nguyễn Minh Thảo – Trưởng Ban nghiên cứu Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương - CIEM)

TS. Nguyễn Minh Thảo: Sau 2 năm dịch bệnh 2020-2021, DN kỳ vọng phục hồi từ năm 2022. Thế nhưng, nền kinh tế mới chỉ phục hồi được trong 3 quý đầu năm 2022, sau đó suy giảm một cách nhanh chóng. Những khó khăn, bất lợi của tình hình thế giới đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong quý I và tiếp tục xu hướng kéo dài trong quý II/2023, tác động mạnh đến kết quả chung 6 tháng đầu năm. Quý III/2022 kinh tế tăng trưởng gần 14%, thì ngay sau đó quý IV/2022 đã giảm xuống còn 5,9%; Quý II/2023 ước tính tăng 4,14%. Theo đó, GDP 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,72%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% của 6 tháng đầu năm 2020 trong giai đoạn 2011-2023. 

Như vậy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% như Quốc hội đã thông qua, thì theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), tăng trưởng nửa cuối năm phải đạt khoảng 8,9%. Đây là thách thức vô cùng lớn bởi từ năm 2011 đến nay, tăng trưởng chưa bao giờ đạt được mức này. Các động lực tăng trưởng chủ yếu như xuất khẩu, sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo đều đang suy giảm (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 0,37% trong 6 tháng đầu năm 2023); dự đoán khó có thể phục hồi nhanh và mạnh trong thời gian tới.

Tình hình DN 6 tháng đầu năm cũng chứng kiến những biến động bất thường. Cả nước có 75,9 nghìn DN đăng ký thành lập mới, nhưng cũng có tới 60,2 nghìn DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn. Số liệu từ năm 2018 cho thấy tỉ lệ DN thành lập mới/DN tạm ngừng hoạt động thấp nhất là 2,0 (năm 2022) và cao nhất lên tới 4,1 (năm 2019). Điều này cho thấy thông thường các năm số lượng DN thành lập mới thường gấp đôi, thậm chí có năm gấp 4 lần số DN tạm ngừng hoạt động. Trong khi đó, 6 tháng đầu năm 2023, số lượng DN thành lập mới chỉ gấp gần 1,3 số lượng DN tạm ngừng hoạt động. Kết quả này thể hiện mức độ khó khăn của DN hiện nay thậm chí còn nặng nề hơn rất nhiều so với thời kỳ COVID-19. 

Rõ ràng là cộng đồng DN và nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phải đương đầu với những “cơn gió ngược” (tôi xin phép sử dụng lại từ của Thủ tướng Chính phủ nêu tại Phiên họp thường kỳ của Chính phủ đánh giá tình hình phát triển kinh tế -xã hội sáng ngày 4/7), đó là suy giảm kinh tế toàn cầu, là lạm phát gia tăng, là sự đe dọa của các cuộc xung đột đối với an ninh lương thực, năng lượng toàn cầu, là khả năng thích ứng và sức chống chịu hạn chế của các nước đang phát triển.… Trong bối cảnh đó, cộng đồng DN chờ đợi một môi trường kinh doanh thuận lợi với sự ổn định về chính sách, nhất là các chính sách về thuế, phí,… để DN có niềm tin về sự đồng hành, chia sẻ của Chính phủ với những khó khăn của họ, từ đó an tâm sản xuất kinh doanh và thực hiện một cách bền vững hơn nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước (NSNN).

Những kỳ vọng của DN về ổn định chính sách cũng phù hợp với các chỉ đạo của Chính phủ. Đơn cử, Quyết định 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 đã khẳng định “Về quy mô thu ngân sách từ thuế, phí, bảo đảm duy trì tỷ lệ huy động vào NSNN từ thuế, phí ở mức ổn định, hợp lý và phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội…: Trong giai đoạn đầu tập trung hỗ trợ DN, người dân khắc phục khó khăn, phục hồi sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh COVID-19”.

Thu 2,3 nghìn tỷ đồng tiền thuế, nhưng thất thu 3,6 nghìn tỷ đồng do sụt giảm sản lượng

Phóng viên: Được biết vừa rồi CIEM có nghiên cứu tác động kinh tế - xã hội của áp thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với các sản phẩm người giải khát có đường (NGKCĐ)Vì sao CIEM lại chọn vấn đề đó? Các phát hiện chính của nghiên cứu là gì?

TS. Nguyễn Minh Thảo: Mọi chính sách, trong đó có các chính sách tác động đến DN, đều cần được nghiên cứu và đánh giá tác động toàn diện trước khi ban hành. Ngành nước giải khát đóng góp một phần không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Kể từ năm 2015 tới nay, ngành đồ uống chiếm 4,5% tỷ trọng nhóm ngành sản xuất kinh doanh dịch vụ. Trong giai đoạn 2010-2019, ngành nước giải khát nộp NSNN gần 90.000 tỷ đồng, cung cấp việc làm trực tiếp cho 300.000 lao động và việc làm gián tiếp cho hàng triệu lao động. 

Vì vậy, khi Bộ Tài chính dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi), trong đó mở rộng đối tượng chịu thuế bao gồm cả thức uống đại mạch và nước giải khát không cồn với lý do bảo vệ sức khỏe người dân thì câu hỏi nghiên cứu CIEM đặt ra là: Liệu thuế TTĐB có đạt được mục tiêu như mong muốn? Nguyên nhân của tình trạng thừa cân, béo phì có phải chỉ do NGKCĐ hay còn do các nguyên nào khác? Tác động đa chiều thế nào của thuế TTĐB tới nền kinh tế, DN và người dân? 

nuoc-giai-khat-co-duong.jpg

Kết quả nghiên cứu chính sách theo cả phương pháp đánh giá tác động pháp luật (RIA) và phương pháp phân tích bảng cân đối liên ngành đều cho thấy việc áp dụng TTĐB có tác động lan tỏa, tiêu cực đối với DN và người dân, Nhà nước và với nền kinh tế quốc gia. Giá trị sản xuất của 21 ngành hàng sẽ giảm trung bình 0,08%, trong đó mặt hàng cà phê chịu giảm mạnh giá trị sản xuất 18% và và chè chịu giảm 0,22%. Mặc dù thuế TTĐB 10% sẽ tăng thu ngân sách 2,3 nghìn tỷ đồng, ảnh hưởng do sụt giảm sản lượng sẽ gây thất thu NSNN 3,6 nghìn tỷ đồng. Các chỉ số kinh tế như tổng giả trị tăng thêm (GVA), GDP, thu nhập người lao động, thăng dư sản xuất, lao động, thu ngân sách qua thuế gián thu đều bị ảnh hướng tiêu cực.

Đó là chưa kể đến việc đánh thuế NGKCĐ sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới ngành mía đường của Việt Nam do đường sản xuất bởi các nhà máy địa phương là nguyên liệu đầu vào cho ngành thực phẩm và giải khát trong nước. Dự kiến, việc đánh thuế sẽ tác động tiêu cực tới sinh kế của 337.000 hộ gia đình trồng mía. Theo Quy hoạch phát triển ngành đồ uống được Chính phủ phê duyệt, Việt Nam dự kiến sẽ tăng tỷ trọng của nước giải khát không cồn và giảm tỉ trọng của rượu bia do tác động tiêu cực của các sản phẩm này. Tuy nhiên, việc áp thuế TTĐB lên NGKCĐ sẽ đi ngược lại mục tiêu trên khi các nhà sản xuất đồ uống không cồn sẽ buộc phải cân nhắc lại kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh doanh của mình.

Doanh nghiệp cần sự hỗ trợ thiết thực và hiệu quả

Phóng viên: Vậy từ kết quả nghiên cứu của một ngành hàng, bà có khuyến nghị chính sách nào đối với cơ quan chức năng không?

TS. Nguyễn Minh Thảo: DN nói chung và DN trong lĩnh vực nước giải khát nói riêng đang trong giai đoạn rất khó khăn. Các chính sách ban hành cần đảm bảo nhất quán với định hướng, chính sách của Đảng và Nhà nước về hỗ trợ phục hồi và phát triển DN. Những rủi ro chính sách sẽ dẫn tới bào mòn sức khoẻ, ảnh hưởng tới niềm tin của nhà đầu tư và DN. Xét trên tổng thể, cả về khía cạnh sức khỏe cộng đồng, cũng như việc đảm bảo nguồn thu cho NSNN, đề xuất đưa các sản phẩm đồ uống vào danh mục chịu thuế TTĐB sẽ không hữu hiệu, vì sắc thuế này sẽ tạo tác động tiêu cực đến nền kinh tế lớn hơn lợi ích có thể đạt được; đồng thời cũng không thật sự đạt hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề thừa cân, béo phì.

Do vậy, đối với dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi), xin ý kiến nghị như sau: 

Thứ nhất, cơ quan soạn thảo nên đánh giá tác động một cách toàn diện khi đề xuất mở rộng đối tượng chịu thuế và tăng thuế TTĐB.

 Thứ hai, Chính phủ nên lùi thời hạn hoặc có lộ trình đối với việc áp dụng sắc thuế TTĐB đối với NGKCĐ để các DN xây dựng chiến lược thích ứng, kế hoạch cải tiến sản phẩm, trong khi có thể khấu hao dây chuyền công nghệ cũ. 

Thứ ba, Chính phủ có thể đưa ra những biện pháp mang tính thị trường hơn như khuyến cáo về dinh dưỡng, yêu cầu dán nhãn phân loại sản phẩm theo lượng đường.

Các hành động chính sách sẽ tác động đến cách thức vượt qua khó khăn và mức độ tận dụng cơ hội của các DN trong quá trình phục hồi. Trong bối cảnh hiện nay, DN hơn bao giờ hết cần sự hỗ trợ thiết thực và hiệu quả từ sự đồng hành, chia sẻ của Chính phủ.

Phóng viên: Xin cám ơn bà!

Thanh Thanh

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ