Một số khó khăn, vướng mắc trong xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại cơ quan thi hành án

(Banker.vn) Có thể thấy, được sự quan tâm chỉ đạo và điều hành có hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng với sự vào cuộc quyết liệt từ các tổ chức tín dụng, chất lượng tín dụng ngày càng được cải thiện, đặc biệt nợ xấu đã được xử lý thực chất, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để nợ xấu được xử lý có hiệu quả hơn nữa, rất cần các ngành, các cấp, trong đó có cơ quan thi hành án tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu, từ đó đưa hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, lành mạnh và bền vững hơn.

Tóm tắt: Có thể thấy, được sự quan tâm chỉ đạo và điều hành có hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng với sự vào cuộc quyết liệt từ các tổ chức tín dụng, chất lượng tín dụng ngày càng được cải thiện, đặc biệt nợ xấu đã được xử lý thực chất, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để nợ xấu được xử lý có hiệu quả hơn nữa, rất cần các ngành, các cấp, trong đó có cơ quan thi hành án tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu, từ đó đưa hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, lành mạnh và bền vững hơn. Bài viết làm rõ một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành án, qua đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả của công tác thi hành án trong việc xử lý nợ xấu tại các  tổ chức tín dụng.

Từ khóa: khó khăn, vướng mắc, xử lý nợ xấu, thi hành án

Several difficulties and obstacles in handling bad debts of credit institutions at judgement enforcement agencies

Abstract: It can be seen that, with close monitoring and effective management of the State Bank of Vietnam, along with the drastic participation of credit institutions, credit quality has been increasingly improved; especially bad debt has been handled more effectively and substantially. However, in order for bad debts to be settled more effectively, it is necessary for relevant stakeholders, including judgment enforcement agencies to remove difficulties and obstacles in the process of bad debt settlement, thereby bringing the banking system develops stably, healthily and sustainably. The article clarifies some difficulties and obstacles in the process of enforcement of judgment, thereby making some suggestions and recommendations to promote the effectiveness of judgement enforcement in handling bad debts at credit institutions.

Keywords: difficulties, problems, bad debt handling, enforcement of judgement

1. Thực trạng xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng

Dưới sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, có hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), cùng với các giải pháp xử lý nợ xấu, cũng như các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh từ các tổ chức tín dụng (TCTD) đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng, đồng thời giảm nợ xấu, được các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước đánh giá cao;

Theo số liệu công bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng năm 2021 là 1,9%. Trên cơ sở đánh giá, tổng kết Đề án 1058 và thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, theo đó, NHNN đã xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025.

Đối với xử lý nợ xấu, trong quá trình triển khai, các TCTD đã chủ động, tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng nhiều biện pháp khác nhau như: đôn đốc thu hồi nợ, bán nợ, khởi kiện hay sử dụng trích lập dự phòng rủi ro…

Theo đó, lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến hết ngày 31/12/2021, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết số 42, bình quân xử lý được khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng; số liệu này cho thấy, nợ xấu thu được cao hơn nhiều so với kết quả xử lý nợ xấu tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (bình quân giai đoạn 2012 - 2017, hệ thống các TCTD xử lý được khoảng 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng).

Từ năm 2021 đến nay, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 216,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu và trong 4 tháng đầu 2022, tổng số dư nợ xấu được xử lý đạt 54,8 nghìn tỷ đồng, phần lớn là khách hàng trả nợ (23,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,0% tổng nợ xấu được xử lý); sử dụng dự phòng rủi ro (14,2 nghìn tỷ đồng, 25,9%) và bán nợ cho VAMC (11,4 nghìn tỷ đồng, 20,9%). Xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 chủ yếu thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 148 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,9% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý (bình quân giai đoạn 2012-2017 tỷ lệ xử lý nợ xấu khoảng 22,8%). Trong đó, riêng năm 2021, đã xử lý được 48,3 nghìn tỷ đồng.

Mặc dù kết quả xử lý nợ xấu trong những năm qua đã đạt được những kết quả tích cực, tuy nhiên với những tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19 và những khoản nợ xấu còn tồn đọng ở giai đoạn trước, nguy cơ nợ xấu thời gian tới có thể tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh; doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, ảnh hưởng đến hoạt động của các TCTD.

Có thể thấy, bên cạnh chỉ đạo quyết liệt, sâu sát và có hiệu quả từ NHNN, với sự phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ từ các cơ quan, ban, ngành, trong đó có cơ quan thi hành án đã góp phần không nhỏ giúp cho các TCTD xử lý nợ xấu hiệu quả, thực chất hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, trong đó có khó khăn, vướng mắc từ cơ quan thi hành án cần được tiếp tục tháo gỡ để kết quả xử lý nợ xấu ngày càng đạt được kỳ vọng của các TCTD, cũng như toàn xã hội.

2. Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành án

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế tại các TCTD vẫn còn gặp phải một số khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án, cụ thể như sau:

Thứ nhất, vướng mắc pháp lý về thủ tục gia hạn thời hạn sử dụng tài sản thế chấp là đất nông nghiệp. Theo quy định của pháp luật về đất đai, người thực hiện các thủ tục đăng ký biến động đất đai là người sử dụng đất. Do quá trình thi hành án sẽ thực hiện kê biên, phát mãi tài sản của người phải thi hành án nên chủ tài sản thường có tâm lý né tránh, không hợp tác trong việc đăng ký biến động đất đai.

Chính vì vậy, pháp luật đã có cơ chế quy định về việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản bảo đảm mà không cần phải có sự đồng ý của chủ tài sản, cụ thể tại Điều 58 Nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Tuy nhiên, các biến động đất đai còn lại lại không có quy định cụ thể điều chỉnh nên cơ quan thi hành án không có cơ sở pháp lý để thực hiện việc đăng ký biến động đất đai, đặc biệt đối với đất nông nghiệp đã hết thời hạn sử dụng đất.

Thực tiễn cho thấy, nhiều tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất tọa lạc tại các huyện đã hết thời hạn sử dụng, tuy nhiên Văn phòng đăng ký đất đai huyện lại yêu cầu phải có đề nghị của chủ tài sản mới thực hiện gia hạn, nhưng phần lớn chủ tài sản không hợp tác nên cơ quan thi hành án buộc phải dừng thực hiện thi hành án, qua đó ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của các TCTD.

Thứ hai, việc hoãn thi hành án trong trường hợp Tòa án thụ lý tranh chấp liên quan để tài sản bảo đảm đã được bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành tuyên kê biên, xử lý để đảm bảo thu hồi khoản nợ cho TCTD.

Các cơ quan thi hành án thực hiện theo đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, để kéo dài và trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, nhiều đương sự khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp và yêu cầu cơ quan thi hành án hoãn thi hành án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự, làm cho việc thi hành án bị kéo dài, gây khó khăn cho TCTD trong việc sớm thu hồi các khoản nợ.

Thứ ba, vướng mắc về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan với cơ quan thi hành án:

+ Đối với Toà án:

Căn cứ khoản 2 điều 20 Luật Thi hành án dân sự, chấp hành viên có trách nhiệm thi hành đúng nội dung bản án, quyết định được thi hành án. Do đó, nội dung bản án, quyết định của Toà án là cơ sở quan trọng nhất để thực hiện thủ tục thi hành án. Trên thực tế, việc hiểu đúng và đủ nội dung của bản án như thế nào đôi khi lại có sự mâu thuẫn giữa cơ quan thi hành án và các đương sự.

Vì vậy, pháp luật về tố tụng cũng như thi hành án dân sự đều có quy định về việc cơ quan thi hành án, đương sự trong vụ việc thi hành án có quyền yêu cầu Toà án giải thích, đính chính nội dung bản án, quyết định do Toà ban hành (điều 486 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 và điều 365 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).

Tuy nhiên, dựa vào các vụ việc thi hành án tại các TCTD, việc thực hiện quyền yêu cầu Toà án giải thích bản án của cơ quan thi hành án hay đương sự vẫn chưa được đảm bảo. Chẳng hạn như đối với khoản phải thi hành án là nghĩa vụ hoàn trả số cổ phần của Công ty B theo bản án của Tòa án, do có sự khác biệt về cách hiểu nội dung của bản án nên cả cơ quan thi hành án và TCTD đều có đơn đề nghị Toà án giải thích nội dung bản án, nhưng không được phúc đáp.

Mặt khác, theo Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự đều không quy định rõ thời hạn trả lời yêu cầu giải thích bản án, nên phía TCTD cũng như cơ quan thi hành án không có cơ sở kiến nghị Toà án giải quyết đúng thời hạn, dẫn đến việc dù bản án đã có hiệu lực nhưng nhiều năm vẫn chưa thể giải quyết.

+ Đối với cơ quan có chức năng quản lý đất đai:

Trong cơ cấu tài sản bảo đảm tại các TCTD, tài sản thế chấp là bất động sản luôn chiếm tỷ lệ lớn, dẫn đến phát sinh nhiều vụ việc thi hành án có tài sản phải thi hành là bất động sản. Vì vậy, văn phòng đăng ký đất đai đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ cơ quan thi hành án xác minh điều kiện thi hành án, xác minh, xác nhận các thông tin về đất đai,…. Tuy nhiên, nhiều trường hợp văn phòng đăng ký đất đai chậm trả lời xác minh về điều kiện thi hành án, về tài sản thi hành án, dẫn đến kéo dài thời gian xử lý, gây ảnh hưởng tới công tác thu hồi nợ.

+ Đối với cơ quan công an:

Cơ quan công an có vai trò hết sức quan trọng giúp cho công tác thi hành án dân sự đạt hiệu quả, là lực lượng không thể thiếu trong các buổi cưỡng chế nhằm duy trì, đảm bảo tình hình an ninh trật tự. Vì vậy, trong công tác thi hành án nói chung và công tác cưỡng chế nói riêng, mối quan hệ phối hợp này là một trong những điều kiện giúp cho công tác cưỡng chế thành công.

Tại khoản 4 Điều 72 Luật thi hành án dân sự quy định chấp hành viên phải lập kế hoạch cưỡng chế và gửi cho cơ quan công an. Căn cứ vào kế hoạch cưỡng chế này cơ quan công an có trách nhiệm lập kế hoạch bảo vệ cưỡng chế, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời ngăn cản hành vi tẩu tán tài sản và chống đối người thi hành công vụ.

Tuy nhiên thực tế, việc phối hợp trong công tác cưỡng chế thi hành án giữa cơ quan thi hành án và cơ quan công an đối với một số vụ việc vẫn chưa thực sự tích cực, dẫn đến kéo dài thời gian thu hồi nợ vay cho các TCTD.

Thứ tư, chấp hành viên thực hiện chưa đúng qui định về thời gian thi hành án. Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014 và năm 2020 đã có qui định cụ thể về thời gian thi hành án, như Điều 39 thông báo thi hành án, Điều 45 thời hạn tự nguyện thi hành án và Điều 46 cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, chấp hành viên thực hiện không đúng qui định dẫn đến việc thi hành án kéo dài, một số vụ kéo dài một vài năm, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của các TCTD.

Thứ năm, thời gian thanh toán tiền thi hành án chưa thực hiện đúng theo qui định. Mặc dù Điều 47 Luật thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 và năm 2020 qui định thời hạn thanh toán tiền kể từ ngày thu được tiền, tài sản thi hành án, tuy nhiên một số vụ, khoản tiền thi hành án vẫn kéo dài vài tháng, thậm chí hàng năm, dẫn đến việc thu hồi nợ của các TCTD bị chậm trễ.

3. Đề xuất, kiến nghị

Để phát huy tính hiệu quả của công tác thi hành án trong việc xử lý nợ xấu tại các TCTD, tác giả có một số kiến nghị, đề xuất như sau:

Một là, về thủ tục gia hạn thời hạn sử dụng tài sản thế chấp là đất nông nghiệp, cơ quan thi hành án cần phối hợp với cơ quan quản lý đất đai ban hành văn bản hướng dẫn cho phép cơ quan thi hành án thực hiện gia hạn quyền sử dụng đất khi đã hết hạn đối với trường hợp đã có bản án của cơ quan pháp luật hoặc cho bên mua tài sản thực hiện gia hạn sau khi cơ quan thi hành án đã thực hiện phát mãi tài sản.

Hai là, về công tác phối hợp trong thi hành án, giữa các cơ quan hữu quan và cơ quan thi hành án cần có cơ chế phối hợp sâu sát hơn nữa, trong đó nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị cũng như thời hạn thực hiện nhằm tạo ra hành lang pháp lý cũng như nâng cao trách nhiệm trong công tác thi hành án của các cơ quan liên quan.

Ba là, cơ quan thi hành án cần phối hợp ban hành, hoặc ban hành văn bản qui định cụ thể thời hạn tối đa phải thực hiện thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và thời hạn chuyển trả tiền cho các TCTD sau khi phát mãi tài sản; qui định rõ các biện pháp, chế tài cụ thể đối với các tổ chức, cá nhân không tuân thủ qui định của pháp luật về thời hạn thi hành án và thời gian thanh toán tiền thi hành án, tránh trường hợp kéo dài thời gian thi hành án và thanh toán tiền cho các TCTD.

Tóm lại, được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, NHNN và cơ quan ban, ngành, đặc biệt sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống các TCTD, thời gian qua, công tác xử lý nợ xấu tại các TCTD đã thu được nhiều thành quả đáng khích lệ, tuy nhiên kết quả đạt được vẫn chưa được như kỳ vọng của các TCTD cũng như toàn xã hội. Một trong những nguyên nhân đó là còn những khó khăn, vướng mắc tại cơ quan thi hành án và sự phối hợp của các ngành có liên quan. Vì vậy, thiết nghĩ các cơ quan liên quan và chính quyền các cấp cần tiếp tục vào cuộc để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc nêu trên, từ đó giúp cho các TCTD xử lý nợ xấu có hiệu quả, thực chất hơn nữa.

Tài liệu tham khảo:

- Xuân Hồng(2019).Thu hồi nợ xấu qua thi hành án dân sự: Việc khó cần chung tay. Đầu tư Chứng khoán

- Thái Phương (2021). Đau đầu xử lý tài sản thế chấp. Báo Người lao động

- Luật thi hành án dân sự năm 2008,2014 và 2020

- Luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hình sự năm 2015

- https://vneconomy.vn/chi-tiet-...

- https://thoibaotaichinhvietnam...

Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 23 năm 2022

TS. VŨ VĂN THỰC

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ